#dự báo kinh tế Việt Nam – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:24:28 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #dự báo kinh tế Việt Nam – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 VinaCapital kỳ vọng nền kinh tế Việt Nam trở lại đúng tiềm năng trong năm 2023 https://tindoanhnhan.com/vinacapital-ky-vong-nen-kinh-te-viet-nam-tro-lai-dung-tiem-nang-trong-nam-2023/ Wed, 08 Feb 2023 01:23:48 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/vinacapital-ky-vong-nen-kinh-te-viet-nam-tro-lai-dung-tiem-nang-trong-nam-2023/

Nền kinh tế đang quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng dài hạn khi giai đoạn bùng nổ sau COVID-19 đã kết thúc. Chuyển động thị trường chứng khoán gần đây đã cho thấy giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc. VinaCapital kỳ vọng nền kinh tế và thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trở lại thể hiện đúng với tiềm năng trong năm nay.

Trong bài phân tích “Hướng đến 2023” vừa công bố, ông Michael Kokalari, chuyên gia Kinh tế trưởng của VinaCapital nhận định, tăng trưởng GDP của Việt Nam có khả năng giảm tốc từ 8% năm 2022 xuống 6% năm 2023, một phần do nền kinh tế toàn cầu chậm lại sẽ ảnh hưởng đến lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.

Tuy vậy, việc mở cửa trở lại của Trung Quốc có thể sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm 2% thông qua tăng trưởng du lịch nước ngoài. Đồng thời, tăng trưởng cũng được hỗ trợ từ việc Chính phủ đẩy mạnh đầu tư công khi định hướng mục tiêu tăng chi tiêu cho cơ sở hạ tầng từ khoảng 4% GDP vào năm 2022 lên 7% GDP (tương đương khoảng 30 tỷ USD) vào năm 2023.

Trong dài hạn, VinaCapital cho rằng, việc dòng vốn FDI vẫn tiếp tục chảy vào Việt Nam; quá trình đô thị hóa và nhân khẩu học sẽ giúp thúc đẩy tăng trưởng liên tục của tầng lớp trung lưu mới nổi và tiêu dùng nội địa Việt Nam… sẽ là những nhân tố chính thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế.

Bên cạnh đó, VinaCapital kỳ vọng kinh tế vĩ mô của Việt Nam sẽ duy trì ổn định trong năm nay. Giá trị của VND đã mất giá 3% trong năm 2022, trong khi các các đồng tiền trong khu vực thị trường mới nổi mất giá 7%. Năm 2023, VinaCapital nhận định giá trị đồng VND sẽ tăng 2-3%.

Về lạm phát, CPI của Việt Nam trung bình là 3% trong năm 2022 thấp hơn nhiều so với các thị trường cận biên/mới nổi trên thế giới. VinaCapital dự báo chỉ số này của Việt Nam sẽ tăng lên 4% trong năm 2023, phần lớn là do Trung Quốc mở cửa trở lại có khả năng gây áp lực lên giá thực phẩm và năng lượng tại Việt Nam.

Đối với thị trường chứng khoán, ông Michael Kokalari cho rằng, giai đoạn giảm điểm của VN-Index đang kết thúc và thị trường có sự đồng thuận về kỳ vọng VN-Index sẽ tăng hơn 20% với sự phục hồi về cơ bản là do sự cải thiện ở cả yếu tố trong nước và quốc tế vốn đã tạo áp lực lên thị trường trong năm ngoái.

Đặc biệt, áp lực lạm phát toàn cầu hiện đang giảm bớt. Điều này có nghĩa là việc tăng lãi suất mạnh mẽ của các ngân hàng trung ương làm suy yếu các thị trường chứng khoán phát triển lẫn mới nổi vào năm ngoái có thể sẽ sớm kết thúc.

Trong nước, Chính phủ sẽ thực hiện các bước để giảm bớt các vấn đề thanh khoản hiện đang tác động đến thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam. Điều này sẽ dẫn đến việc nối lại khả năng tái cấp vốn cho các khoản nợ đáo hạn của các công ty Việt Nam.

“Việc niềm tin trở lại thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ là một quá trình kéo dài, nhưng định giá hấp dẫn và triển vọng tăng trưởng lợi nhuận vững chắc của thị trường có lẽ giải thích tại sao các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu Việt Nam trị giá 1,1 tỷ USD trong hai tháng cuối năm 2022. Họ cũng là những người mua ròng trên thị trường Việt Nam cho cả năm 2022, lần đầu tiên kể từ năm 2019”, vị chuyên gia này đánh giá.

Với chủ đề đầu tư năm 2023, VinaCapital đánh giá cao nhóm tiêu dùng trong nước, cơ sở hạ tầng và đầu tư FDI. Đồng thời, bổ sung các đối tượng hưởng lợi từ lãi suất thấp và sự hợp nhất là hai chủ đề mới cho năm nay.

]]>
BSC: Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023, đầu tư công là ‘liều thuốc mạnh’ https://tindoanhnhan.com/bsc-hai-kich-ban-tang-truong-kinh-te-viet-nam-2023-dau-tu-cong-la-lieu-thuoc-manh/ Mon, 30 Jan 2023 08:18:58 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/bsc-hai-kich-ban-tang-truong-kinh-te-viet-nam-2023-dau-tu-cong-la-lieu-thuoc-manh/

Trong báo cáo vào giữa tháng 1/2023, nhóm phân tích từ Chứng khoán BIDV (BSC) đưa ra hai kịch bản tăng trưởng GDP cho Việt Nam trong năm nay. Theo đó, ở kịch bản lạc quan, tăng trưởng GDP đạt 6,7% và ở kịch bản thận trọng hơn là 6,2%.

 

Theo đó, BSC dự báo năm 2023, tăng trưởng kinh tế thế giới sẽ chậm lại do 3 yếu tố bao gồm: (1) xu hướng thắt chặt chính sách  tiền tệ toàn cầu tác động trực tiếp vào khả năng sản xuất cũng như tiêu dùng của nền kinh tế, tiềm ẩn khả năng xảy ra suy thoái; (2) tình trạng đứt gãy chuỗi cung ứng hàng hóa và dịch vụ toàn cầu vẫn chưa được giải quyết bởi chiến tranh Nga – Ukraine và (3) khủng hoảng năng lượng tại châu Âu do khan hiếm dầu thô, nhất là khi lệnh cấm vận của châu Âu đối với dầu thô nhập khẩu từ Nga qua đường biển chính thức có hiệu lực từ ngày 5/12/2022.

Trong bối cảnh Mỹ và châu Âu nhiều khả năng đối diện với nền kinh tế tăng trưởng giảm tốc trong năm 2023, Trung Quốc – với tư cách là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới (với GDP 2021 đạt 17,734 tỷ USD, chỉ đứng sau mức 23,315 tỷ USD của Hoa Kỳ) – chính thức mở cửa trở lại từ ngày 8/1/2023 được dự báo sẽ là động lực tăng trưởng chính của nền kinh tế toàn cầu trong năm 2023.

Với Việt Nam, sự mở cửa trở lại của Trung Quốc sẽ giúp nối lại chuỗi cung ứng bị đứt gãy, phần nào giảm áp lực lên chi phí sản xuất của các doanh nghiệp trong nước, đồng thời cũng là động lực thúc đẩy tăng trưởng xuất nhập khẩu, kéo theo dòng ngoại tệ chảy vào cũng như phục hồi du lịch của Việt Nam trong năm 2023.

Ở trong nước, chính sách tài khóa mở rộng với dự chi ngân sách lên tới 792 nghìn tỷ đồng (bao gồm đầu tư công từ gói kích thích kinh tế) cùng kỳ vọng tốc độ giải ngân có thể đạt mức cao khi các dự án tuyến đường Bắc – Nam đã đến giai đoạn đấu thầu vào cuối năm 2022 dự kiến sẽ là động lực cơ bản thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong năm nay.

“Trong tình trạng lãi suất và lạm phát cao của năm 2023, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước khó khăn sẽ khiến giải ngân vốn đầu tư NSNN trở thành một trong những liều thuốc mạnh thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Điều này tiếp tục được phản ánh trong gói dự toán NSNN 2023 với tổng vốn đầu tư đạt 792 nghìn tỷ đồng (bao gồm 103 nghìn tỷ đồng của gói kích thích kinh tế). Giải ngân vốn NSNN năm 2023 ước tính đạt từ 554,740 tỷ đồng đến 673,614 tỷ đồng, tương với tốc độ tăng trưởng từ 8,4-31,7% so với 2022)”, báo cáo của BSC nêu rõ.

Tuy nhiên, tăng trưởng xuất nhập khẩu được dự báo tiếp tục suy yếu do tăng trưởng kinh tế toàn cầu được dự báo sẽ suy giảm so với năm 2022 khiến nhu cầu tiêu dùng hàng hóa toàn cầu yếu đi, kết hợp với thách thức từ căng thẳng Mỹ – Trung kéo dài.

BSC ước tính kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt mức 393-402 tỷ USD trong năm 2023 (+5,8%-8,3% so với năm 2022). Nhập khẩu đạt mức 380-387 tỷ USD (+5,4%-7,3%). Theo kết quả dự tính trên, Việt Nam có thể xuất siêu 12,6-15,2 tỷ USD vào năm 2023. 

Trong khi đó, dòng vốn FDI được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng do sức hút của Việt Nam với tư cách thành viên của hàng loạt FTA thế hệ mới, tuy nhiên tốc độ tăng dự báo chậm lại trong bối cảnh kinh tế toàn cầu giảm tốc, 

BSC ước tính giải ngân vốn FDI năm 2023 sẽ đạt khoảng 25,1 tỷ USD (+10,7% so với 2022) ở kịch bản 1 và 28,2 tỷ USD (+12,4%) ở kịch bản 2. Ở cả hai kịch bản, tăng trưởng FDI đều giảm so với năm 2022 do dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu chậm lại.

Dựa trên các giả định, nhóm nghiên cứu BSC xây dựng hai kịch bản dự đoán tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2023. Ở kịch bản 1, tức kịch bản tiêu cực, GDP ước tính đạt tốc độ tăng trưởng 6,2% trong khi ở kịch bản 2, tức kịch bản tích cực, GDP ước tính đạt tốc độ tăng trưởng 6,7%.

BSC: Hai kịch bản tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2023, đầu tư công là ‘liều thuốc mạnh’

 

]]>
MAS: Dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 cao nhất 6,7%, đầu tư công là ‘đầu kéo’ chính https://tindoanhnhan.com/mas-du-bao-tang-truong-gdp-nam-2023-cao-nhat-67-dau-tu-cong-la-dau-keo-chinh/ Fri, 13 Jan 2023 04:39:25 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/mas-du-bao-tang-truong-gdp-nam-2023-cao-nhat-67-dau-tu-cong-la-dau-keo-chinh/

Chứng khoán Mirae Asset Việt Nam (MAS) dự báo tăng trưởng GDP năm 2023 ở mức 6,2%−6,7% với kỳ vọng tốc độ tăng trưởng giải ngân đầu tư công sẽ bù đắp cho sự chững lại trong tăng trưởng tiêu dùng, cũng như sự chậm lại của xuất khẩu và sản xuất công nghiệp.

Bức tranh kinh tế Việt Nam năm 2023: Tìm kiếm ổn định trong bất định

 

Tại báo cáo chiến lược vĩ mô năm 2023 mang tên “Lạc quan trên tâm thế thận trọng” công bố ngày 5/1, nhóm phân tích MAS nhận định triển vọng kinh tế toàn cầu trong năm nay tiếp tục là câu chuyện tăng trưởng thấp đi kèm lạm phát cao. 

Theo đó, các ngân hàng trung ương lớn trên thế giới nhiều khả năng sẽ tiếp tục duy trì xu hướng tăng lãi suất để đối phó với lạm phát trong nửa đầu năm 2023 và giảm dần trong nửa cuối năm.

Với nền kinh tế lớn nhất hành tinh, MAS kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (MAS) sẽ thành công đưa thị trường hạ cánh mềm năm. Về phía nền kinh tế lớn thứ hai thế giới là Trung Quốc, dự báo triển vọng tăng trưởng thấp sau thời gian dài duy trì chiến lược Zero COVID. Trong khi đó, khu vực đồng tiền chung châu Âu (EU) dự báo sẽ bước vào suy thoái trong bối cảnh nợ công ở một số nước gia tăng; tuy nhiên có triển vọng cơ bản ổn định và hồi phục lại trong nửa cuối năm. 

Ngoài ra, xung đột Ukraine – Nga kéo dài có khả năng sẽ tiếp tục gây ra sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu lâu hơn và khiến giá hàng hóa duy trì ở mức cao, dù tác động lên chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ nhẹ hơn nhiều so với năm 2022.

Giữa nền viễn cảnh kinh tế toàn cầu nhiều thách thức, trong năm 2023, nhóm phân tích MAS cho rằng Việt Nam có thể sẽ ưu tiên mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô hơn tăng trưởng.

Theo kế hoạch của Chính phủ, lạm phát được đặt mục tiêu kiểm soát khoảng 4,5% vào năm 2023, trong khi tăng trưởng GDP năm 2023 dự kiến sẽ ở mức 6,5%. 

Liên quan đến mục tiêu tăng trưởng này, MAS dự phóng Việt Nam sẽ duy trì tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 6,2%−6,7% so với cùng kỳ vào năm 2023 và trung bình 7,3% trong giai đoạn 2023-2025, theo đó tốc độ tăng trưởng giải ngân đầu tư công sẽ bù đắp cho sự chững lại trong tăng trưởng tiêu dùng, cũng như sự chậm lại của xuất khẩu và sản xuất công nghiệp. 

Đầu tư công là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế 2023

Trong bối cảnh thương mại quốc tế đang chững lại do nhiều thách thức, Chính phủ có thể sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư công trong năm 2023. Động thái như vậy không chỉ nhằm mục đích hỗ trợ tăng trưởng GDP của Việt Nam mà còn giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút FDI. 

Năm 2023, theo dự toán ngân sách nhà nước cả năm đã được Quốc hội thông qua, chi đầu tư phát triển năm 2023 sẽ ở mức 726,68 nghìn tỷ đồng, tức tăng 38% so với kế hoạch năm 2022. 

Theo đó, báo cáo của MAS kỳ vọng giải ngân đầu tư công cùng với Quy hoạch Điện VIII sẽ là những động lực tăng trưởng chính trong 2023. 

Đầu tư công là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế 2023

 

Doanh số bán lẻ có thể chững lại dù vẫn là động lực tăng trưởng kinh tế

Năm 2022, tiêu dùng nội địa tăng khá mạnh (từ mức thấp của năm 2021), với tổng mức bán lẻ tăng khoảng 20% so với cùng kỳ (nếu trừ lạm phát, tăng 15,6%). 

Tuy nhiên trong năm 2023, nhóm phân tích MAS cho rằng tăng trưởng tiêu dùng sẽ chững lại do áp lực lạm phát, điều kiện tài chính thắt chặt (ví dụ như lãi suất cho vay tăng và mức chi trả nợ cao hơn), cũng như rủi ro thất nghiệp gia tăng sẽ gây áp lực lên tiêu dùng trong nước. Cùng đó là việc so sánh với mức nền khá cao của năm 2021.

Tuy nhiên, du lịch tiếp tục phục hồi sẽ là điểm sáng quan trọng thúc đẩy tiêu dùng nội địa như một động lực của tăng trưởng kinh tế. Ngành này đóng góp gần 10% GDP (năm 2018-2019, thời điểm trước dịch) và giải quyết việc làm cho khoảng 1,3 triệu người; vì vậy, các chuyên gia cho rằng sự trở lại của ngành du lịch được kỳ vọng sẽ là động lực tăng trưởng “mới” cho mảng bán lẻ hàng hóa, dịch vụ nói chung và dịch vụ du lịch, lưu trú, ăn uống nói riêng. 

Doanh số bán lẻ có thể chững lại dù vẫn là động lực tăng trưởng kinh tế

 

Sản xuất và xuất khẩu có thể phục hồi vào nửa cuối năm

Trước đại dịch COVID-19, xuất khẩu ròng đóng góp khoảng 5–6% GDP. 

Theo Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu năm 2022 tăng 10,6% so với cùng kỳ và đạt 371,85 tỷ USD. Dù vậy, nếu tính riêng từng giai đoạn, có thể thấy xuất khẩu đã giảm tốc đáng kể từ tháng 9 (chủ yếu đến từ thị trường Hoa Kỳ và EU) sau 3 quý đầu năm mạnh mẽ. 

Theo MAS, tăng trưởng thương mại quốc tế năm 2023 nhìn chung dự báo vẫn tiếp tục chậm lại trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang xấu đi, rủi ro địa chính trị và gián đoạn chuỗi cung ứng tiếp diễn. Theo S&P Global, việc tiền đồng mất giá dẫn đến chi phí đầu vào tăng nhanh hơn, trong bối cảnh tiêu dùng toàn cầu kém khả quan. Điều này cũng được phản ánh qua chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) của các ngành công nghiệp chế biến chế tạo đã chậm lại đáng kể từ tháng 10/2022. 

Do vậy, dự báo ít nhất trong nửa đầu năm, xuất khẩu có thể sẽ tăng trưởng với tốc độ chậm hơn do nhu cầu bên ngoài suy yếu.

Bước sang nửa cuối năm, nhiều sự đồng thuận kỳ vọng rằng lạm phát Chi tiêu tiêu
dùng cá nhân (PCE) quý IV/2022 của Mỹ sẽ thấp hơn dự báo của FED. Điều này có thể sẽ vực dậy tâm lý người tiêu dùng tại Mỹ cũng như các thị trường xuất khẩu chủ lực khác của Việt Nam. Cùng với việc Trung Quốc mở cửa trở lại gần đây, những tín hiệu này được kỳ vọng có thể giúp sớm thúc đẩy xuất khẩu và sản xuất của Việt Nam về cuối năm.

Dòng vốn FDI vẫn tích cực

Theo Tổng cục Thống kê, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam tính đến ngày 20/12/2022 (bao gồm vốn đăng ký cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài) ước đạt gần 27,72 tỷ USD, giảm 11% so với năm trước. Tuy nhiên, điểm sáng là vốn FDI giải ngân đạt tới 22,4 tỷ USD, tăng 13,5% so với cùng kỳ và là mức FDI thực hiện cao nhất trong 5 năm qua.

Trên nền mạnh mẽ của năm 2022, Việt Nam được kỳ vọng vẫn giữ được lợi thế trong việc thu hút FDI trong năm 2023 trong bối cảnh chuỗi cung ứng toàn cầu đang tái cơ cấu. 

Nhóm phân tích MAS chỉ ra một số yếu tố chính có thể tác động đến triển vọng hút FDI của nước ta trong năm nay bao gồm: ảnh hưởng của việc đồng USD mạnh lên so với VND, rủi ro địa chính trị cũng như cạnh tranh gia tăng trong việc thu hút đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia (chẳng hạn như Malaysia, Indonesia, Ấn Độ). 

Dòng vốn FDI vẫn tích cực

 

Lạm phát cả năm dự báo 4,5-5%, chính sách tiền tệ có thể linh hoạt hơn

MAS dự báo lạm phát năm 2023 sẽ dưới mức 4,5-5%, tương ứng với kỳ vọng tăng trưởng tín dụng 13-15%. Cụ thể, trong năm 2022, các chuyên gia cho rằng xung đột Ukraine – Nga và các biện pháp “Zero-Covid” nghiêm ngặt của Trung Quốc đã gây ra lạm phát chi phí đẩy (cost-push inflation). Trong khi đó, bước sang năm 2023, dự báo tác động của yếu tố chi phí đẩy sẽ giảm dần và thay thế bằng yếu tố nội tại (built-in factors) (áp lực giữa lương và giá). 

“Theo chúng tôi quan sát, CPI tăng khá nhanh bắt đầu từ tháng 9/2022, trong đó CPI của nhóm Lương thực & thực phẩm, Nhà ở & VLXD, và Giáo dục có mức tăng cao nhất. Trong bối cảnh này, chúng tôi cho rằng quá trình giảm phát có thể sẽ mất nhiều thời gian hơn vì sẽ có độ trễ giữa tốc độ tăng lương chậm lại và tốc độ lạm phát chậm lại ở các lĩnh vực dịch vụ vốn sử dụng nhiều nhân lực. 

Ngoài ra, với khả năng cao giá điện sẽ tăng vào năm 2023 (giá điện Việt Nam bình quân giữ ở mức 1.864,44 đồng/kWh (chưa bao gồm VAT) kể từ tháng 3/2019), chúng tôi kỳ vọng yếu tố nội tại sẽ đóng vai trò quyết định trong việc gia tăng áp lực lạm phát ở Việt Nam trong năm 2023”, báo cáo của MAS nêu rõ.

Trong giả thuyết như vậy, chính sách tiền tệ được dự báo sẽ linh hoạt hơn trong năm 2023. Nhất là khi các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới, bao gồm cả FED, được dự báo sẽ giảm tốc độ tăng lãi suất dần trong năm. 

“Với kỳ vọng này, chúng tôi dự báo chính sách tiền tệ sẽ tiếp tục được thắt chặt trong nửa đầu năm 2023 trước khi nới lỏng dần. Như vậy, mức giảm giá của VND được kỳ vọng sẽ ở mức vừa phải nhờ cơ chế điều tiết cung cầu ngoại tệ linh hoạt của NHNN. Ngoài ra, việc củng cố chính sách tài khóa (với tỷ lệ nợ công năm 2021 là 43,1% GDP) và bộ vốn đệm để ứng phó với các cú sốc từ bên ngoài (nhờ dòng vốn FDI ổn định và thặng dư tài khoản vãng lai) sẽ giúp ổn định vĩ mô nói chung”, nhóm phân tích MAS nhận định.

 

 

]]>
Chuyên gia Nga đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam https://tindoanhnhan.com/chuyen-gia-nga-danh-gia-tich-cuc-ve-kinh-te-viet-nam/ Wed, 28 Dec 2022 03:35:43 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/chuyen-gia-nga-danh-gia-tich-cuc-ve-kinh-te-viet-nam/

Nhân dịp chuẩn bị bước sang năm mới 2023, phóng viên TTXVN tại LB Nga đã có cuộc trao đổi với Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Vladimir Mazyrin, nhà Việt Nam học người Nga, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam và ASEAN trực thuộc Viện Trung Quốc và châu Á Đương đại, Viện Hàn lâm Khoa học LB Nga, về hiện trạng của nền kinh tế Việt Nam.

Chuyên gia Nga đánh giá tích cực về kinh tế Việt Nam

Sản xuất chi tiết động cơ, ly hợp, côn, hộp số của ô tô, xe máy tại Công ty Exedy Việt Nam, Khu công nghiệp Khai Quang. Ảnh: Hoàng Hùng/TTXVN

Tiến sĩ Mazyrin cho rằng trong bối cảnh ngay sau khi đại dịch COVID-19 giảm bớt và thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức như lạm phát, khủng hoảng năng lượng và cạnh trạnh địa chính trị, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục tăng trưởng tốt và cao hơn các nước trong khu vực Đông Nam Á là dấu hiệu tích cực. Điều này cũng cho thấy sự ổn định và khả quan của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh các rủi ro nêu trên vẫn tiếp tục tác động và ảnh hưởng, chuyên gia Mazyrin nhận định có thể xem tốc độ tăng trưởng nhanh hiện nay là sự tăng trưởng phục hồi.

Đề cập đến những yếu tố giúp Việt Nam duy trì được các động lực tăng trưởng kinh tế, Tiến sĩ Mazyrin cho rằng điểm đáng chú ý nhất là Việt Nam duy trì được dòng vốn đổ vào khá tốt do các nhà đầu tư luôn tìm kiếm những nơi trên thế giới có tình hình ổn định. Theo ông, yếu tố thứ hai giúp duy trì tăng trưởng kinh tế cao là sự dịch chuyển sản xuất của các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, sang Việt Nam. Chuyên gia này cũng đề cập đến chính sách kinh tế vĩ mô linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt thời kỳ Đổi mới, đã kết hợp sự điều tiết của nhà nước với cơ chế thị trường. Điều này giúp duy trì sự ổn định và đảm bảo nền kinh tế phát triển thuận lợi.

Tuy nhiên, Tiến sĩ Mazyrin cũng cho rằng ảnh hưởng của các yếu tố xung đột địa chính trị, trong đó có cả khủng hoảng năng lượng và lương thực, vẫn đang ở phía trước và điều này sẽ tác động tới nền kinh tế Việt Nam trong năm 2023. Ngoài ra, vấn đề còn nằm ở chỗ nền kinh tế Việt Nam rất mở khi Việt Nam đang hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam ước đạt khoảng 750 tỷ USD là kết quả nổi bật của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, chuyên gia này cho rằng cùng với xuất khẩu tăng, mức độ phụ thuộc cũng tăng lên. Trong bối cảnh đó, cuộc khủng hoảng ở châu Âu ngày càng nghiêm trọng do xung đột tại Ukraine có thể ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang châu Âu và khả năng nhập khẩu từ châu Âu cũng sẽ giảm.        

Theo Tiến sĩ Mazyrin, trong một năm qua, lạm phát của Việt Nam ở mức tương đối thấp. Điều này mang lại kết quả tốt đẹp về mặt kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, ông cảnh báo hiện tượng này có thể chỉ là tạm thời do tình trạng lạm phát cao trên toàn cầu. 

Trong bối cảnh nhiều thách thức đối với nền kinh tế như hiện nay, ông Mazyrin nhận định Việt Nam đang có nhiều lựa chọn đối tác phong phú, đặc biệt là trong khu vực Đông Á bởi xét về tổng thể, các nước trong khu vực này có triển vọng thịnh vượng hơn về kinh tế. Do đó, ông cho rằng đối với Việt Nam, giống như bất kỳ nước thành viên ASEAN nào, việc mở rộng thương mại là cần thiết và quan trọng.

]]>