#logistics – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sat, 02 Aug 2025 17:58:14 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #logistics – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 Cục Xúc tiến Thương mại và Amazon Global Selling Việt Nam hợp tác ‘bứt phá’ xuất khẩu https://tindoanhnhan.com/cuc-xuc-tien-thuong-mai-va-amazon-global-selling-viet-nam-hop-tac-but-pha-xuat-khau/ Sat, 02 Aug 2025 17:58:10 +0000 https://tindoanhnhan.com/cuc-xuc-tien-thuong-mai-va-amazon-global-selling-viet-nam-hop-tac-but-pha-xuat-khau/

Thị trường thương mại điện tử (TMĐT) toàn cầu đã chứng kiến sự tăng trưởng ấn tượng của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây. Cụ thể, số lượng sản phẩm bán ra trên Amazon của các doanh nghiệp Việt Nam đã tăng hơn 300% trong 5 năm qua. Điều này cho thấy những bước tiến vững chắc của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Tọa đàm “Bứt phá xuất khẩu - Nâng tầm giá trị thương hiệu Việt”
Tọa đàm “Bứt phá xuất khẩu – Nâng tầm giá trị thương hiệu Việt”

Ngày 23/7, Hội nghị ‘Bứt phá Xuất khẩu: Thương hiệu Việt cất cánh toàn cầu’ đã diễn ra tại Hà Nội, do Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) – Bộ Công Thương và Amazon Global Selling Việt Nam đồng tổ chức. Hội nghị tập trung vào việc thảo luận về các cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường TMĐT toàn cầu.

Theo ông Larry Hu, Tổng Giám đốc Amazon Global Selling Đông Nam Á, các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ lớn và là động lực tăng trưởng của Amazon, với gần 2 triệu nhà bán hàng trên toàn cầu, chiếm 60% tổng doanh số bán hàng. Ông Hu cũng chia sẻ 7 yếu tố quan trọng giúp nhà bán hàng Việt Nam thành công trong TMĐT, bao gồm đổi mới sản phẩm, hiểu biết về khách hàng và thị trường, quản lý mạng lưới logistics toàn cầu hiệu quả, xây dựng thương hiệu toàn cầu, xác định đúng thị trường và đảm bảo tuân thủ quy định, tận dụng sức mạnh của AI, và duy trì tinh thần học hỏi và đổi mới.

Trong khuôn khổ hội nghị, Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade) và Amazon Global Selling đã công bố thiết lập quan hệ đối tác 3 năm cùng triển khai chương trình ‘Thương Hiệu Việt tăng trưởng toàn cầu’ (V-Brands Go Global with Amazon). Hợp tác quan trọng này hướng tới mục tiêu chung trong việc tạo bệ phóng thành công cho các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường TMĐT toàn cầu. Chương trình đặt ra hai mục tiêu: cung cấp chương trình đào tạo toàn diện và chứng nhận xuất khẩu trực tuyến cho 1.000 doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời hỗ trợ 30 thương hiệu quốc gia tăng cường hiện diện quốc tế thông qua TMĐT với Amazon.

Ông Vũ Bá Phú, Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại, Bộ Công Thương, cho biết việc chủ động đa dạng hóa các hoạt động xúc tiến thương mại trên môi trường số không còn là lựa chọn mà là điều kiện tiên quyết để nâng cao năng lực cạnh tranh, khả năng thích ứng và phát triển bền vững của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.

Ông Larry Hu, Tổng Giám đốc Amazon Global Selling Đông Nam Á, cho biết đây là giai đoạn chuyển mình của thương mại số Việt Nam. Amazon Global Selling nhận thấy xuất khẩu qua TMĐT đang trở thành một động lực quan trọng trong chiến lược thương mại quốc tế và phát triển thương hiệu của Việt Nam. Thông qua hợp tác với Cục Xúc tiến Thương mại (Vietrade), Amazon sẽ hỗ trợ doanh nghiệp tại các khu vực kinh tế đang phát triển đổi mới sản phẩm, chuyển đổi số hoạt động và vươn ra toàn cầu.

]]>
Thủ tướng Chính phủ ủng hộ Sumitomo đầu tư smart city ở Bắc Hà Nội https://tindoanhnhan.com/thu-tuong-chinh-phu-ung-ho-sumitomo-dau-tu-smart-city-o-bac-ha-noi/ Sat, 02 Aug 2025 15:53:17 +0000 https://tindoanhnhan.com/thu-tuong-chinh-phu-ung-ho-sumitomo-dau-tu-smart-city-o-bac-ha-noi/

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa tiếp ông Yukihito Honda, Tổng Giám đốc điều hành khối Phát triển Đô thị Đa dạng của Tập đoàn Sumitomo (Nhật Bản), tại Trụ sở Chính phủ. Trong cuộc tiếp xúc, Thủ tướng đánh giá cao các dự án đầu tư của Tập đoàn Sumitomo tại Việt Nam, nhấn mạnh những dự án này có quy mô lớn, tác động lan tỏa tới phát triển kinh tế – xã hội tại các địa phương.

Thủ tướng cho biết, các khu công nghiệp do tập đoàn đầu tư đã thu hút 6 tỷ USD đầu tư và giải quyết việc làm cho hơn 90 nghìn lao động. Người đứng đầu Chính phủ đề nghị Tập đoàn Sumitomo tiếp tục mở rộng các hoạt động đầu tư tại Việt Nam với tiến độ triển khai nhanh và hiệu quả hơn. Đặc biệt, tập đoàn nên tập trung vào những lĩnh vực có thế mạnh như cơ sở hạ tầng, tài chính, bất động sản, giao thông vận tải, đường sắt, điện tử, hóa chất, nông nghiệp công nghệ cao, khu công nghiệp, thành phố thông minh, logistics, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.

Thủ tướng mong muốn Tập đoàn Sumitomo trở thành nhà đầu tư chiến lược, đóng góp tích cực cho kinh tế Việt Nam, đồng thời thúc đẩy tăng trưởng xanh và kinh tế tuần hoàn. Về các dự án cụ thể, Thủ tướng ủng hộ Tập đoàn Sumitomo khởi công xây dựng Thành phố thông minh Bắc Hà Nội cùng các dự án nhân kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2.9.

Ông Yukihito Honda cho biết, Tập đoàn Sumitomo đang tham gia liên doanh đầu tư Dự án Thành phố thông minh Bắc Hà Nội, đầu tư các khu công nghiệp tại Hà Nội, Hưng Yên, Phú Thọ, Thanh Hóa, Quảng Trị. Bên cạnh đó, tập đoàn còn tham gia thi công EPC dự án đường sắt trong đô thị số 1 tại Thành phố Hồ Chí Minh và dự án nhiệt điện BOT Vân Phong I công suất 1.320 MW đã đi vào hoạt động.

Tổng Giám đốc điều hành Khối Phát triển Đô thị Đa dạng của Tập đoàn Sumitomo đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương hỗ trợ tập đoàn triển khai các dự án hiện có. Ngoài ra, tập đoàn cũng hy vọng được đầu tư Dự án Nhà máy Điện khí Vân Phong 2. Thủ tướng Phạm Minh Chính hoan nghênh Tập đoàn Sumitomo quan tâm đến các dự án đầu tư mới tại Việt Nam, bao gồm các Dự án Khu công nghiệp Thanh Hóa và Thành phố thông minh Bắc Hà Nội.

Thủ tướng khẳng định, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương sẽ hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản nói chung và Tập đoàn Sumitomo nói riêng triển khai hoạt động đầu tư kinh doanh có hiệu quả và bền vững tại Việt Nam. Nguyên tắc chung là đảm bảo công khai, minh bạch, giảm thủ tục hành chính và tuân thủ quy định của pháp luật.

Cụ thể, về Thành phố thông minh Bắc Hà Nội, Thủ tướng ủng hộ Tập đoàn Sumitomo phối hợp chặt chẽ với Hà Nội để xây dựng dự án này hiện đại, văn minh, mang bản sắc văn hóa của Nhật Bản và Việt Nam. Dự án này sẽ được khởi công cùng với các công trình và dự án nhân Kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2.9.

Về Dự án Nhà máy Điện khí Vân Phong 2, Thủ tướng giao Bộ Công Thương nghiên cứu và có phản hồi đối với đề xuất của Tập đoàn Sumitomo liên quan tới Quy hoạch điện VIII. Người đứng đầu Chính phủ cũng đề nghị tập đoàn phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương để sớm có đáp án về dự án này.

]]>
Sáp nhập Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu vào TP HCM để làm vùng công nghiệp liên hoàn https://tindoanhnhan.com/sap-nhap-binh-duong-ba-ria-vung-tau-vao-tp-hcm-de-lam-vung-cong-nghiep-lien-hoan/ Sun, 27 Jul 2025 02:38:56 +0000 https://tindoanhnhan.com/sap-nhap-binh-duong-ba-ria-vung-tau-vao-tp-hcm-de-lam-vung-cong-nghiep-lien-hoan/

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang phát triển nhanh chóng, Việt Nam cũng không đứng ngoài cuộc đua để thu hút vốn đầu tư và đẩy mạnh sự phát triển kinh tế. Mới đây, thông tin về việc sáp nhập TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đã tạo ra một siêu đô thị mới với tiềm năng phát triển vượt trội đã thu hút sự quan tâm lớn từ cộng đồng. Sự kiện này hứa hẹn sẽ mở ra kỷ nguyên mới cho phát triển công nghiệp và kinh tế vùng.

Một trong những hướng đi quan trọng trong sự phát triển này là quy hoạch và phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất và khu công nghệ cao. Trong nhiều năm qua, TP.HCM đã gặp khó khăn trong việc phát triển các khu công nghiệp mới do thiếu quỹ đất sạch. Tuy nhiên, với việc sáp nhập Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu vào TP.HCM, không gian phát triển kinh tế vùng đã được mở rộng đáng kể. Bình Dương đã có nền tảng phát triển công nghiệp vững chắc với nhiều khu công nghiệp lớn như VSIP, Sóng Thần, Mỹ Phước…, trong khi Bà Rịa – Vũng Tàu sở hữu cảng nước sâu Cái Mép – Thị Vải, mang lại lợi thế về hậu cần và xuất khẩu.

Theo ông Lê Văn Thinh, Trưởng Ban quản lý Các khu chế xuất và công nghiệp TP.HCM (HEPZA), việc hợp nhất 3 địa phương hình thành nên một siêu đô thị mới với nhiều chỉ tiêu kinh tế – xã hội vượt trội so với từng địa phương riêng lẻ. Trong giai đoạn 2025-2030, HEPZA đặt mục tiêu thu hút đầu tư đạt từ 20-21 tỷ USD; suất đầu tư bình quân thu hút đạt từ 8-10 triệu USD/ha; giải ngân 70% tổng vốn đầu tư đăng ký theo tiến độ. Điều này không chỉ thể hiện tiềm năng phát triển lớn mà còn cho thấy sự quyết tâm của chính quyền trong việc tạo ra một khu vực kinh tế năng động và cạnh tranh quốc tế.

Các chuyên gia nhận định, việc sáp nhập các địa phương sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, đặc biệt với các khu công nghiệp vệ tinh xoay quanh những doanh nghiệp nòng cốt. Nhà đầu tư cũng được hưởng lợi khi thủ tục đầu tư trở nên thống nhất, không còn cảnh kẹt giữa 2 địa bàn. Đồng thời, việc đồng bộ quy hoạch cũng góp phần giảm thiểu rủi ro chạy đua hạ giá thuê đất hay ưu đãi thuế thiếu kiểm soát. Điều này tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn và minh bạch, khuyến khích sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước.

Sau sáp nhập, tổng diện tích khu công nghiệp của cụm TP.HCM – Bình Dương – Bà Rịa – Vũng Tàu đã vượt 33.000 ha. Với hệ thống hạ tầng liên kết đồng bộ gồm cao tốc TP.HCM – Long Thành – Dầu Giây, các tuyến đường Vành đai 3, Vành đai 4, Quốc lộ 51 và các cảng lớn như Tân Cảng – Cái Mép, Cát Lái…, khu vực này đang hình thành vùng công nghiệp – hậu cần – xuất khẩu quy mô lớn ở phía Nam. Sự phát triển của hạ tầng giao thông và các khu công nghiệp sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển hàng hóa, trao đổi thương mại và phát triển kinh tế.

Chỉ tiêu sử dụng đất khu công nghiệp cũng được tối ưu hơn. Nếu TP.HCM cũ không còn chỉ tiêu phát triển khu công nghiệp, các dự án có thể được điều phối linh hoạt sang Bình Dương hoặc Bà Rịa – Vũng Tàu cũ, những nơi vẫn còn quỹ đất và tiềm năng phát triển. Sự linh hoạt trong quy hoạch sử dụng đất sẽ giúp cho việc phát triển công nghiệp trở nên hiệu quả hơn, đồng thời tạo cơ hội cho các địa phương trong việc thu hút đầu tư và phát triển kinh tế.

Việc sáp nhập các đơn vị hành chính sẽ phần nào phá vỡ những giới hạn của thị trường công nghiệp Việt Nam. Khi 2 hoặc 3 địa phương hợp nhất, không gian phát triển sẽ được mở rộng một cách đột phá. Điều này giúp địa phương sau sáp nhập có thể quy hoạch thêm nhiều khu công nghiệp mới với diện tích lớn hơn, cung cấp thêm lựa chọn cho nhà đầu tư. Đây là một bước tiến quan trọng trong việc xây dựng một khu vực kinh tế năng động, hiện đại và bền vững.

]]>
Tây Ninh dẫn đầu tăng trưởng kinh tế ở khu vực phía Nam 6 tháng đầu năm https://tindoanhnhan.com/tay-ninh-dan-dau-tang-truong-kinh-te-o-khu-vuc-phia-nam-6-thang-dau-nam/ Tue, 22 Jul 2025 09:54:23 +0000 https://tindoanhnhan.com/tay-ninh-dan-dau-tang-truong-kinh-te-o-khu-vuc-phia-nam-6-thang-dau-nam/

Tỉnh Tây Ninh đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ấn tượng trong 6 tháng đầu năm 2025, với mức tăng trưởng 9,63%. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong các tỉnh, thành khu vực phía nam và đứng thứ 7 trên toàn quốc. Sự thành công này có được là nhờ sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và nhân dân trong việc duy trì đà tăng trưởng khá, nổi bật là chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 15,39% so với cùng kỳ.

Một yếu tố quan trọng khác đóng góp vào sự tăng trưởng của tỉnh Tây Ninh là việc thu hút được nhiều dự án đầu tư. Trong 6 tháng đầu năm, tỉnh đã cấp phép cho 119 dự án đăng ký mới, với tổng vốn đầu tư lên đến hơn 627,8 triệu USD. Các dự án này tập trung vào các lĩnh vực như công nghệ cao, năng lượng tái tạo và logistics, không chỉ giúp đa dạng hóa nền kinh tế mà còn đóng góp vào sự phát triển bền vững của tỉnh.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, tỉnh Tây Ninh cũng duy trì được đà tăng trưởng tích cực. Hoạt động xuất nhập khẩu trong ngành nông nghiệp đạt hiệu quả cao, giúp tăng cường vị thế của tỉnh trong vùng. Tổng thu ngân sách của tỉnh đạt hơn 28 nghìn tỷ đồng, đạt 75,3% dự toán. Ngoài ra, tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đến đầu tháng 7 đạt gần 48% kế hoạch, cho thấy sự nỗ lực của tỉnh trong việc thúc đẩy đầu tư công.

Trước những kết quả tích cực này, tỉnh Tây Ninh đã đặt mục tiêu tăng trưởng GRDP năm 2025 đạt 9-9,5%, và phấn đấu trên 10%. GRDP bình quân đầu người được kỳ vọng đạt 115-120 triệu đồng. Tốc độ tăng thu ngân sách Nhà nước so với năm 2024 được đặt mục tiêu ở mức 20-30%. Ngoài ra, tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trên địa bàn so với tổng sản phẩm năm 2025 dự kiến đạt 34-35%.

Ông Nguyễn Văn Út – Chủ tịch UBND tỉnh Tây Ninh, tại Hội nghị đánh giá tình hình kinh tế – xã hội 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2025, đã nhấn mạnh việc đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ trọng tâm trong những tháng cuối năm. Mục tiêu cụ thể là trong Quý III phải đạt tỉ lệ giải ngân trên 75% và cả năm phấn đấu giải ngân 100% vốn được giao.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, tỉnh Tây Ninh sẽ tiếp tục vận hành hiệu quả mô hình chính quyền địa phương 2 cấp, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với chuyển đổi số. Đồng thời, tỉnh sẽ tập trung vào việc khai thác tối đa tiềm năng địa kinh tế và hoàn thiện hệ thống hạ tầng giao thông đồng bộ. Bên cạnh đó, việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội cũng được coi là những nhiệm vụ quan trọng. Tỉnh cũng cam kết đảm bảo quốc phòng – an ninh và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, theo tinnews.

]]>
Khơi thông “mạch máu” logistics – Bài cuối: Tăng năng lực tự động và số hóa https://tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-cuoi-tang-nang-luc-tu-dong-va-so-hoa/ Mon, 02 Jan 2023 10:18:52 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-cuoi-tang-nang-luc-tu-dong-va-so-hoa/

Một trong những nhiệm vụ của ngành logistics Tp. Hồ Chí Minh bước sang giai đoạn 2021-2025, định hướng đến 2030 là tập trung phát triển chuyển đổi hệ sinh thái logistics.

Khơi thông “mạch máu” logistics – Bài cuối: Tăng năng lực tự động và số hóa

Quang cảnh cảng Cát Lái luôn đầy ắp hàng hóa. Ảnh: Tiến Lực – TTXVN

Qua đó, ngành logistics tăng năng lực tự động hóa và số hóa quá trình lưu thông hàng hóa luồng di chuyển, lưu trữ hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu qua địa bàn.

 

Đồng thời, nắm bắt xu hướng ngành, nhất là làn sóng ứng dụng công nghệ trong lĩnh vực logistisc.

Nhận diện thế mạnh địa phương

Tp. Hồ Chí Minh cũng như các địa phương trên cả nước thúc đẩy phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, xây dựng các đường vành đai và nhất là xây dựng hệ thống đường cao tốc kết nối liên vùng. Điều này, đòi hỏi Tp. Hồ Chí Chí Minh phải nhận diện vị trí trung tâm, phát huy vai trò tạo thuận lợi trong vận tải, thương mại hàng hóa nội địa và quốc tế thông qua rút ngắn thời gian vận chuyển, đảm bảo tăng chất lượng dịch vụ logistics.

Theo bà Phan Thị Thắng, nguyên Phó chủ tịch UBND Tp. Hồ Chí Minh (nay là Thứ trưởng Bộ Công Thương), trong quá trình xây dựng chính sách và phát triển kinh tế, Tp. Hồ Chí Minh xác định ngành logistics là một ngành rất quan trọng, có tác động đến sự phát triển bền vững, lâu dài cho tăng trưởng kinh tế thành phố.

Đến nay, thành phố đã định hình được hướng đi và đang tập trung triển khai các nhiệm vụ trọng tâm của ngành như tập trung hình thành hệ thống trung tâm logistics theo tiêu chuẩn quốc tế, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao…

Về hạ tầng giao thông, bà Phan Thị Thắng cho rằng, Tp. Hồ Chí Minh có thế mạnh về vị trí địa lý khi nằm giữa các trục giao thông Bắc – Nam, Đông – Tây… nên trở thành trung tâm lưu chuyển hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu cho khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam nhưng hệ thống đường giao thông chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của thành phố. Đặc biệt, những tuyến đường vành đai kết nối Tp. Hồ Chí Minh với các tỉnh Đông – Tây Nam bộ triển khai còn chậm dẫn đến hoạt động giao thương chưa tương xứng với tiềm năng khu vực phía Nam.

Để giải quyết một số vấn đề quan trọng của hạ tầng logistics, việc hình thành hệ thống trung tâm logistics hiện đại, đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay là hết sức bức thiết đối với Tp. Hồ Chí Minh và cả khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam.

Theo Đề án phát triển logistics Tp. Hồ Chí Minh đến 2025 và tầm nhìn 2030 của Sở Công Thương Tp. Hồ Chí Minh, đòi hỏi căn cứ vào nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa trong khu vực và xuất nhập khẩu, đồng thời trên cơ sở rà soát nguồn quỹ đất hiện có trên địa bàn và Tp. Hồ Chí Minh cần có 7 trung tâm logistics đạt chuẩn.

Theo ông Lê Huỳnh Minh Tú, Phó Giám đốc Công Thương Tp. Hồ Chí Minh, ngành công thương sẽ thúc đẩy tự động hoá và số hoá quá trình lưu thông hàng hoá – mô tả được trạng thái thực của những luồng di chuyển, lưu trữ hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu qua địa bàn. Đơn cử, hàng hóa xuất phát từ nhà máy nào, được trung chuyển qua những điểm nào (kho bãi, bến cảng…) bằng phương tiện gì, thời gian mỗi công đoạn là bao nhiêu…

Ngành công thương Tp. Hồ Chí Minh xây dựng hệ sinh thái dữ liệu logistics dùng chung cho doanh nghiệp và cơ quan nhà nước, dựa trên khoa học dữ liệu, dữ liệu lớn, điện toán đám mây… để biến dữ liệu hiện có của doanh nghiệp thành lợi thế cạnh tranh, tối ưu hoá quá trình lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu và phân phối nội địa. Cùng với đó, xây dựng sàn giao dịch thương mại điện tử giúp kết nối doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với khách hàng cuối cùng và kết nối với ngày càng nhiều sàn thương mại điện tử quốc tế.

Trong Đề án phát triển logistics Tp. Hồ Chí Minh đến 2025 và tầm nhìn 2030, thành phố xác định tập trung những mục tiêu quan trọng như tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ logistics của doanh nghiệp đến năm 2025 đạt 15%, đến năm 2030 đạt 20%. Ngành logistics thành phố đạt tỷ trọng đóng góp vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) Tp. Hồ Chí Minh đến năm 2025 đạt 10% và đến năm 2030 đạt 12%; đồng thời góp phần kéo giảm tỷ lệ chi phí logistics cả nước so với tổng sản phẩm trong nước (GDP) quốc gia.

Mặt khác, tăng tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đến năm 2025 đạt 60% và năm 2030 đạt 70%. Hướng doanh nghiệp sản xuất chuyển sang sử dụng logistics tích hợp (3 PL, 4 PL); phát triển những doanh nghiệp logistics có khả năng kết nối mạng…

Về phía doanh nghiệp, Tp. Hồ Chí Minh cũng đã và đang chủ động nâng cao năng lực cạnh tranh, cung cấp dịch vụ logistics, gồm: tăng tỷ lệ doanh nghiệp 3PL, 4PL (doanh nghiệp sử dụng dịch vụ của một bên thứ 2 thực hiện các hoạt động phục vụ các khâu phân loại, lưu trữ hàng hóa, giao vận) chiếm 3%-5% trong tổng số doanh nghiệp logistics thành phố. Mở rộng thị trường quốc tế, tham gia sâu rộng vào chuỗi cung ứng của các ngành hàng chủ chốt của Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành lân cận ra thị trường quốc tế.

Bám sát xu thế ngành

Bám sát xu thế ngành

Hàng hóa tại cảng Cát Lái. Ảnh: TTXVN

Ngành logistics đang phát triển nhanh và mạnh tại Việt Nam nói chung, tại Tp. Hồ Chí Minh nói riêng với đa dạng sản phẩm, dịch vụ theo sự tăng trưởng của xuất nhập khẩu cũng như dịch vụ bán lẻ, phân phối. Vì vậy, nâng cao hiệu quả hoạt động, cải thiện tính cạnh tranh, cắt giảm chi phí, giá thành… doanh nghiệp phải sử dụng ứng dụng công nghệ vào hoạt động sản xuất, kinh doanh, vận chuyển…

Theo chuyên gia, chính quyền Tp. Hồ Chí Minh cần có những chính sách liên kết để điều phối chung và phát huy vai trò của thành phố trong khu vực, chứ không thể riêng từng địa phương hay ngành nghề, lĩnh vực. Đồng thời, doanh nghiệp thành phố cũng cần phải có những đổi mới trong vận hành, đặc biệt áp dụng công nghệ để chủ động gia giảm chi phí vận hành.

Ở góc độ chuyên gia, ông Nguyễn Quang Trung, Giảng viên Đại học Kinh tế – Tài chính Tp. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, trong sự phát triển của thương mại điện tử và kinh tế số, logistics điện tử (e-Logistics) ngày càng thể hiện rõ tầm quan trọng không thể thay thế. Do đó, đầu tư phát triển hạ tầng logistics và hạ tầng công nghệ thông tin để phát triển e-logistics là vấn đề cấp thiết nên kiến tạo cơ chế, chính sách và môi trường đón đầu công nghệ e-logistics trong chính sách phát triển logistics của Tp. Hồ Chí Minh kết nối vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.

Mục tiêu logistics là tính hiệu quả cùng với tiết kiệm chi phí, còn đối với e-logistics là tính hiệu quả từ tốc độ, sự minh bạch và tin cậy. Với e-Logistics, nhu cầu vận chuyển thiếu ổn định và cũng không thể dự đoán được do số lượng khách hàng rất lớn nhưng trong trường hợp logistics truyền thống, nhu cầu về lô hàng là có thể dự đoán được.

Phân tích cụ thể, ông Phan Văn Chinh, Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho rằng, định hướng phát triển logistics nên nâng cao tiêu chuẩn, chất lượng dịch vụ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của đa dạng thị trường; trong đó, có thể phát triển dịch vụ logistics trọn gói, đồng bộ, phấn đấu giảm chi phí logistics… bằng giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực.

Về phía doanh nghiệp, bộ, ngành và chính quyền địa phương, đồng hành cùng ngành hỗ trợ xây dựng những tập đoàn mạnh về logistics, đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài và xuất khẩu dịch vụ logistics, tạo định hướng và động lực phát triển thị trường. Đơn cử, cơ quan quản lý chung tay xây dựng đội ngũ doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng dịch vụ logistics lạnh, kho lạnh, container lạnh… để phục vụ hàng nông sản, nhất là hàng nông sản chất lượng cao.

Trong thời gian gần đây, giới chuyên gia toàn cầu bắt đầu cân nhắc tới xu hướng logistics 5.0 – quá trình chuyển đổi tập trung vào yếu tố con người. Cùng với đó, cuộc Cách mạng công nghiệp 5.0 cho thấy ba từ khóa quan trọng nhất sẽ là: tập trung vào con người (human-centric), tính bền vững (sustainable) và khả năng thích ứng, phục hồi (resilient).

Xu hướng mới này, đặt ra yêu cầu với ngành logistics phải phát triển những sản phẩm dịch vụ gia trị gia tăng, đáp ứng mọi thị trường như thương mại tự do, thương mại điện tử… ngoài những thị trường truyền thống. Trong đó, Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang đang đứng trước cơ hội trở thành khu vực trọng yếu cho các hoạt động logistics và thương mại toàn cầu trong tương lai.

Mặc dù, ngành logistics đang gia tăng mạnh mẽ nhưng cơ hội vẫn đang mở rộng và dư địa thị trường vẫn còn cho những “người chơi” chuyển mình nhanh chóng nắm bắt cơ hội và hưởng lợi. Theo đó, những “người chơi” trong ngành logistics sẽ cần phải đầu tư nghiêm túc cho công nghệ và hệ thống kho bãi; kết nối các doanh nghiệp nhiều bên tạo dựng hệ sinh thái hoàn chỉnh… để mang lại lợi ích cho đối tác.

Về phía bộ, ngành, Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải cho rằng, nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, là nơi tập trung luồng hàng hoá toàn cầu, Việt Nam có nhiều lợi thế trong việc đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu, phát triển dịch vụ logistics. Sự phát triển của ngành logistics gắn liền với phát triển kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mang tới nhiều cơ hội cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp logistics nói riêng.

Trước bối cảnh hiện nay, muốn nắm bắt được các cơ hội nói trên, cần đa dạng giải pháp logistics và xác định logistics đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc duy trì tính bền vững, nâng cao tính chống chịu của chuỗi cung ứng. Đặc biệt, phát triển ngành logistics bền vững sẽ giúp doanh nghiệp mở ra cánh cửa cho nhiều ngành hàng xuất khẩu.

]]>
Khơi thông “mạch máu” logistics – Bài 3: Phát huy vai trò nhạc trưởng của Tp. Hồ Chí Minh https://tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-3-phat-huy-vai-tro-nhac-truong-cua-tp-ho-chi-minh/ Mon, 02 Jan 2023 05:08:18 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-3-phat-huy-vai-tro-nhac-truong-cua-tp-ho-chi-minh/

Ngành logistics trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước, là nơi trung chuyển chuyển toàn bộ hàng hóa lưu thông giữa các tỉnh, thành qua địa bàn thành phố và nội đô, đồng thời thực hiện xuất khẩu – nhập khẩu; trong đó, Tp. Hồ Chí Minh được đánh giá là đóng vai trò “nhạc trưởng” đối với giải pháp hợp tác, liên kết vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cũng như với cả nước.

Giải pháp liên kết vùng

Mặc dù có sự phát triển trong nhiều năm qua nhưng lĩnh vực hạ tầng cứng và hạ tầng kỹ thuật vẫn còn thiếu các trung tâm logistics để làm nơi lưu trữ, chuyển tải hàng hóa, hệ thống đường giao thông còn chưa đồng bộ. Điều này, không chỉ dẫn đến dẫn ùn tắc giao thông, mà còn là nguyên nhân tăng thời gian vận chuyển và chi phí logistics.

Theo bà Phạm Thị Bích Ngọc, Giảng viên khoa Logistics và Thương mại quốc tế, Trường Đại học Hoa Sen, kết quả một khảo sát của nhóm nghiên cứu khảo sát của khoa cho thấy, doanh nghiệp xuất khẩu gạo từ Đồng bằng sông Cửu Long – Tp. Hồ Chí Minh đang gặp vấn đề về tình trạng thiếu container rỗng và giá cước vận chuyển tăng cao gây khó khăn trong xuất khẩu. Kết quả này, tương đồng với khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) là có gần 40% công ty gặp khó khăn trong việc tìm kiếm container rỗng.

Do đó, trong dài hạn các địa phương vùng kinh tế trọng điểm phía Nam cần có chính sách thúc đẩy đầu tư cơ sở hạn tầng từ Đồng bằng sông Cửu Long – Tp. Hồ Chí Minh và xuất khẩu như đầu tư cảng nước sâu, đường cao tốc… Còn trong ngắn hạn, chính quyền địa phương phối hợp chặt chẽ cơ chế chính sách quản lý Nhà nước như cần có những chính sách nhằm bình ổn chi phí liên quan đến hoạt động logistics, rút ngắn thời gian vận chuyển.

Về vấn đề phát triển logistics vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ông Dương Trường Phúc, Giảng viên Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh cũng cho rằng, vùng kinh tế trọng điểm phía Nam với những lợi thế tự nhiên đã nhanh chóng phát triển hoạt động logistics tại các địa phương trọng yếu như Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương… nhưng còn những hạn chế về chức năng, phân bố và kết nối.

“Liên kết vùng cần được nhận diện rõ ràng trong các chính sách phát triển, nhất là tính bền vững. Chính sách liên kết vùng cần tôn trọng và phát huy tiềm năng và lợi thế so sánh của từng địa phương; giải quyết những xung đột lợi ích, không chỉ vì lợi ích của mỗi địa phương mà còn vì lợi ích chung của vùng, của quốc gia”, ông Dương Trường Phúc chia sẻ thêm.

Cụ thể, hoạt động logistics của Tp. Hồ Chí Minh phục vụ cho thị trường của một siêu đô thị với những lợi thế nằm giữa các trục đường bộ Đông – Tây, Bắc – Nam, cùng với hệ thống hải cảng lớn (Cát Lái, Hiệp Phước, Bến Nghé, Tân Thuận…) có thể vận chuyển đa phương thức (multimodal transport).

Trong khi đó, một số địa phương như Bình Phước, Tây Ninh, Long An… sẽ gặp khó khăn nhất định trong việc tiếp cận với thương mại toàn cầu đối với xuất khẩu các mặt hàng nông sản và nhập khẩu máy móc, trang thiết bị thông qua giao thông vận tải biển nếu không liên kết với Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu.

Liên kết vùng thúc đẩy phát triển các chính sách liên kết và kéo theo đó là các chính sách cho phát triển logistics đồng bộ và hợp lý; tăng cường cầu logistics nhờ liên tục mở rộng đối tác tiềm năng, phân bổ cơ sở hạ tầng logistics giữa các địa phương thành một hệ thống đồng bộ… Hay nói cách khác, liên kết vùng ngoài giải quyết trở lực lớn nhất của địa phương và vùng về hạ tầng giao thông còn hỗ trợ chính sách, nguồn lực, cầu logistics và nhân lực.

Chính vì vậy, để phát triển logistics, một trong những vấn đề cấp thiết là phát huy vai trò của Ban chỉ đạo Vùng để chủ trì kết nối giữa các địa phương trong phát triển logistics, hướng đến sự chia sẻ nguồn lực hạ tầng toàn vùng. Đồng thời, để hiện thực hóa những mục tiêu và giải pháp đề ra cho giai đoạn phát triển đến 2025 và tầm nhìn 2030, cần có các chính sách như một giải pháp điều phối cải thiện tính hệ thống và quy trình chưa hoàn chỉnh hiện nay.

Theo các chuyên gia, Ban chỉ đạo Vùng đảm bảo vai trò hoạch định chiến lược phân chia vai trò trong chuỗi dịch vụ ngành logistics, trong đó Tp. Hồ Chí Minh hướng tới cung cấp dịch vụ giá trị cao trong chuỗi dịch vụ logistics xuất khẩu và phân phối nội địa. Còn các tỉnh, thành lân cận hướng tới trở thành trung tâm logistics vệ tinh là nơi tập trung dịch vụ logistics cơ bản phục vụ cho hàng hóa được sản xuất tại địa phương trước khi xuất khẩu qua cụm cảng khu vực Tp. Hồ Chí Minh.

Hệ sinh thái doanh nghiệp

Ghi nhận sau những tác động của dịch COVID-19, khái niệm logistics 4.0 đã trở thành cụm từ quen thuộc với hầu hết doanh nghiệp. Logistics 4.0 tập trung vào việc ứng dụng các công nghệ chuỗi khối (blockchain), dữ liệu lớn (big data) và máy học (machine learning)… nhằm theo dõi hành trình của hàng hóa theo thời gian thực, giảm thiểu rủi ro thất lạc, cho phép tối ưu hóa tuyến đường vận chuyển…

Với tầm nhìn trở thành thương hiệu chuyển phát nhanh bền vững tại Việt Nam, J&T Express – thương hiệu chuyển phát nhanh quốc tế, là đơn vị chuyển phát nhanh sở hữu các trung tâm trung chuyển lớn bậc nhất Việt Nam – cũng xác định cạnh tranh chất lượng dịch vụ là một trong những chiến lược lâu dài. Tính đến hiện tại, J&T Express đã mở rộng mạng lưới hơn 1.900 bưu cục, 850 xe vận tải, 19.000 nhân viên, 36 trung tâm trung chuyển và cho thấy sự đầu tư chỉn chu, bài bản; đồng thời tiên phong bổ sung tính năng thanh toán đơn hàng bằng QR Code động.

Theo ông Phan Bình, Giám đốc Thương hiệu J&T Express Việt Nam, trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt làm thế nào để bắt kịp xu hướng, gia tăng giá trị cho người tiêu dùng mà vẫn đảm bảo tối ư
u đường dài là bài toán đầy thách thức của mọi doanh nghiệp. Vì vậy, hướng đến giải quyết bài toán phát triển đường dài ổn định, J&T Express đặc biệt đầu tư công nghệ vào quá trình vận chuyển, đảm bảo quy trình vận hành mượt mà, ổn định hơn.

J&T Express mang đến mô hình dịch vụ đa dạng, từ chuyển phát tiêu chuẩn được thiết kế cho tất cả đối tượng khách hàng cho đến giao nhanh và phục vụ một số sản phẩm, dịch vụ đặc biệt. Trong đó, có thể kể đến J&T Express nhận giao cả hàng hóa cồng kềnh hay có thể đặt giao hàng dễ dàng trên nhiều nền tảng; siêu dịch vụ giao hàng cao cấp J&T Super với ưu thế vận chuyển hỏa tốc và bảo mật cho đến giao hàng tươi sống; hay dịch vụ giao hàng J&T International giúp người dùng có thể tra cứu hành trình quốc tế.

Trong tháng 12/2022, MM Mega Market Việt Nam cũng chính thức khai trương trạm trung chuyển thịt lợn tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Đây là kết quả của sự hợp tác giữa MM Mega Market Việt Nam và Công ty TNHH Anh Hoàng Thy. Trạm trung chuyển này có tổng diện tích 5000m2 và đạt chuẩn ISO 22000:2018, trạm trung chuyển có năng lực cung cấp sản phẩm thịt lợn sạch, an toàn cho hệ thống phân phối của MM Mega Market tại Tp. Hồ Chí Minh, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam bộ, và Nam Trung bộ. Trạm trung chuyển được vận hành với sự kiểm soát nghiêm ngặt, theo quy trình khép kín từ trang trại đến bàn ăn.

Ông Nguyễn Đức Toàn, Giám đốc khối vận hành của MM Mega Market cho biết, thông qua sự hỗ trợ từ các sở, ban ngành, đối tác và nông hộ tại Đồng Nai và Tp. Hồ Chí Minh, MM Mega Market Việt Nam tích cực tham gia vào việc phát triển chuỗi cung ứng hàng hóa tiêu dùng thiết yếu liên vùng, mà cụ thể là ngành hàng thịt lợn an toàn của địa phương và khu vực phụ cận. Từ đó, MM kỳ vọng mô hình là bước tiến bộ vượt bậc trong việc cung cấp nguồn thực phẩm đến tay người tiêu dùng thông qua ứng dụng công nghệ và quy trình kiểm soát nghiêm ngặt chuỗi cung ứng từ sản xuất đến chất lượng sản phẩm đầu cuối.

Tương tự, trong quý III/2022, Liên hiệp Hợp tác xã Thương mại Tp. Hồ Chí Minh (Saigon Co.op) và Công ty CP đầu tư Sài Gòn VRG (VRG) đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược xây dựng và phát triển Trung tâm phân phối phía Tây Tp. Hồ Chí Minh. Dự án này được triển khai tại khu công nghiệp Lê Minh Xuân 3, Tp. Hồ Chí Minh và đầu tư theo tiêu chuẩn logistics theo hướng green logistics và trong giai đoạn 1 có diện tích 3,46 ha và dự kiến sẽ đi vào hoạt động từ năm 2023. Nếu trong quá trình vận hành đạt hiệu quả cao, Saigon Co.op sẽ mở rộng thêm giai đoạn 2 với diện tích hơn 8 ha và trở thành một trong những tổng kho quan trọng cho chiến lược phát triển của Saigon Co.op trong thời gian tới.

Chủ tịch Hội đồng quản trị Saigon Co.op Vũ Anh Khoa cho hay, phát triển kho trung tâm phân phối hướng Tây Tp. Hồ Chí Minh nằm trong chiến lược phát triển mạng lưới trung tâm phân phối Saigon Co.op. Đây là dự án giải quyết bài toán giảm áp lực hàng hóa, rủi ro tại các kho hướng Đông hiện hữu; giúp công tác quy hoạch tái đầu tư hệ thống kho; định hướng bố trí cung đường giao nhận hàng hóa hợp lý hơn… góp phần làm giảm chi phí vận chuyển cho Saigon Co.op và nhà cung cấp.

]]>
Khơi thông “mạch máu” logistics – Bài 2: Củng cố tiềm lực doanh nghiệp https://tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-2-cung-co-tiem-luc-doanh-nghiep/ Mon, 02 Jan 2023 05:05:40 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-2-cung-co-tiem-luc-doanh-nghiep/

Doanh nghiệp logistics Tp. Hồ Chí Minh có ưu thế về hoạt động nội địa, chủ yếu cung cấp dịch vụ logistics giản đơn (2 PL), đóng vai trò như vệ tinh cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics tích hợp (3 PL, 4 PL) của nước ngoài. Tuy vậy, khó khăn cơ bản của doanh nghiệp logistics Tp. Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung là có quy mô nhỏ và vừa nên thường gặp thách thức về vốn đầu tư và đào tạo, giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao.

Thiếu nguồn lực

Hiện nay, thị trường logistics Việt Nam đang có sự tham gia của khoảng hơn 5.000 doanh nghiệp; trong đó, 89% là doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ; 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia.

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), có 90% thị phần khai thác cảng biển thuộc về doanh nghiệp Việt Nam. Tương tự, đối với vận tải đường bộ và khai báo hải quan cũng như cung cấp kho, dịch vụ kho thì gần như 100% thuộc về các doanh nghiệp logistics Việt Nam.

Ghi nhận trong thời gian gần đây, sự bùng nổ về thương mại điện tử và logistics điện tử (e-Logistics) đã thúc đẩy ngành logistics Việt Nam cải thiện chất lượng dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp và hiệu quả hơn. Cộng đồng doanh nghiệp logistics Việt cũng từng bước chuyển mình, đẩy mạnh đầu tư các cơ sở hạ tầng, kho bãi hiện đại, ứng dụng khoa học công nghệ mới… để gia tăng thị phần và tham gia chủ động vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, những doanh nghiệp này đang cạnh tranh rất lớn trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực giỏi, do sức hút của doanh nghiệp nước ngoài hoặc tự tách riêng ra thành lập công ty riêng nhỏ. Ngoài ứng dụng công nghệ thông tin cũng còn nhiều hạn chế, phần lớn website doanh nghiệp logistics Tp. Hồ Chí Minh thiếu những tiện ích mà khách hàng cần dùng như công cụ theo dõi đơn hàng, theo dõi chứng từ, xem lịch tàu, e-Booking…

Với thực trạng nêu trên, cộng đồng doanh nghiệp logistics Việt càng khó thực hiện mục tiêu trở thành các doanh nghiệp lớn mạnh, đủ sức cạnh tranh thị phần với doanh nghiệp nước ngoài. Thống kê, có hơn 50% doanh nghiệp logistics tập trung ở Tp. Hồ Chí Minh, tiềm lực tài chính của doanh nghiệp còn yếu nên việc đầu tư cơ sở hạ tầng hiện đại còn chưa đúng mức, dẫn đến các doanh nghiệp phần lớn nhỏ và siêu nhỏ.

Điều này càng đặt ra cho nhiều doanh nghiệp trong ngành logistics Việt Nam nhu cầu thay đổi và “chuyển mình” theo xu hướng không thể đảo ngược với việc đầu tư cơ sở hạ tầng kho bãi hiện đại, áp dụng quản lý số và tự động hóa trong vận hành, mô hình quản trị ngày càng chuyên nghiệp. Doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng phải tăng cường liên kết và tận dụng thế mạnh của nhau để tạo thành một hệ thống hoàn chỉnh khép kín thì khó cạnh tranh trên thị trường.

Bởi sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực cũng như thiếu tính kết nối giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics đã làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp đang bị hạn chế ngay trên chính sân chơi của chính mình khi chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, còn lại thuộc về doanh nghiệp nước ngoài.

Thêm vào đó, cơ sở hạ tầng logistics chưa đồng bộ, còn phân tán, thiếu tính kết nối giữa các khâu từ vận chuyển hàng hóa, nguyên vật liệu tới lưu trữ kho bãi và quản trị chuỗi cung ứng. Quy mô và phạm vi dịch vụ các trung tâm logistics của hạn chế, chủ yếu phục vụ nhu cầu của doanh nghiệp hoặc trong phạm vi mang tính địa phương, chưa phát triển đến quy mô phục vụ 1 ngành hoặc 1 vùng kinh tế.

Ông Đào Trọng Khoa, Phó Chủ tịch thường trực VLA cho rằng, dù là một ngành nhiều tiềm năng nhưng thực tế, phần lớn các doanh nghiệp logistics của ta có quy mô nhỏ, hạn chế về vốn và công nghệ cũng như năng lực hoạt động ở thị trường quốc tế. Trong khi, logistics hiện đại trên thế giới hiện nay đã phát triển đến loại hình 4PL (chuỗi logistics) và 5PL (e-logistics, logistics trên nền thương mại điện tử). Có thể thấy, đây là cơ hội để doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics nắm bắt xu hướng, mở rộng hợp tác quốc tế.

Với sự quan tâm của Chính phủ cũng như những nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, ngành logistics Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, nhưng ngành logistics Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh đang đứng trước yêu cầu đổi mới; trong đó, doanh nghiệp cần có giải pháp định hình hướng đi mới để bắt kịp với xu hướng thế giới, tạo bước đột phá cho phục hồi kinh tế – xã hội trong những năm tới đây.

Chậm chuyển đổi số

Trong điều kiện của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư và rất nhiều biến động về kinh tế, chính trị, xã hội… logistics đang thể hiện vai trò quan trọng trong việc liên kết chặt chẽ các bên liên quan, duy trì và chống đứt gãy chuỗi cung ứng, đóng góp tích cực vào sự phát triển bền vững toàn cầu.

Bằng cách đa dạng hóa những mắc xích trong chuỗi cung ứng sang các nước trong khu vực, trong khi vẫn duy trì hoạt động sản xuất giá trị cao hơn ở Trung Quốc với việc áp dụng kỹ thuật số chuyển đổi và tự động hóa cho thấy các nước ASEAN; trong đó, có Việt Nam đang có lợi thế để hưởng lợi ngay lập tức từ việc thiết kế lại chuỗi cung ứng này.

Điển hình, hai mảng hoạt động logistics lớn hiện nay là logistics cho các dịch vụ xuất – nhập khẩu và logistics phục vụ ngành thương mại điện tử. Nhận diện được cơ hội, ngày càng nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu sử dụng các phần mềm để khắc phục các hạn chế nhưng đa phần vẫn chưa đầu tư đúng mức cho công nghệ, phần mềm cơ bản vẫn còn được áp dụng phổ biến.

Ngoài ra, ứng dụng công nghệ thông tin cũng còn nhiều tồn tại bất cập, khi phần lớn website doanh nghiệp logistics thiếu những tiện ích mà khách hàng cần dùng như công cụ theo dõi đơn hàng, theo dõi chứng từ, xem lịch tàu, e-Booking… Do đó, cộng đồng doanh nghiệp logistics cần cắt giảm chi phí qua ứng dụng công nghệ số hoá.

Báo cáo thống kê thực trạng số hóa logistics trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh cho thấy, tỷ lệ doanh nghiệp logistics
trên địa bàn thành phố có ứng dụng ERP đạt 44,8%. Đây là con số khá cao so với mức trung bình của cả nước là 30%, tuy nhiên vẫn chưa đạt được tối ưu hóa hiệu quả và vẫn còn số lượng lớn doanh nghiệp chưa tiếp cận được. Tương tự, tỷ lệ ứng dụng hệ thống quản lý kho hàng (WMS) đạt 41,4%. Trong khi, hầu hết doanh nghiệp đa quốc gia đều được trang bị hệ thống này, khi vào hoạt động trên thị trường Việt Nam, họ dùng chung hệ thống của công ty mẹ.

Ngoài ra, với các công ty trong nước, chỉ có những doanh nghiệp lớn chuyên làm kho phân phối như Tổng Công ty Tân Cảng, Gemadept, VINAFCO, U&I, TBS, Transimex, Sotrans… đang phát triển các ứng dụng quản lý kho hàng để đạt mức đồng bộ dữ liệu giữa các bộ phận giao hàng, quản lý hàng tồn, kế toán tài chính… Còn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa thì chi phí đầu tư là một rào cản lớn.

Báo cáo này cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ doanh nghiệp logistics có sử dụng công nghệ mã vạch chỉ chiếm 10,2% và sử dụng công nghệ RFID (công cụ cơ bản để quản lý dòng lưu chuyển hàng hóa) chiếm 2,5%. Đồng thời, việc sử dụng điện toán đám mây, công nghệ blockchain, trí tuệ nhân tạo… vẫn còn rất hạn chế trong doanh nghiệp logistics trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh.

Trên thực tế, một trong những nguyên nhân dẫn đến doanh nghiệp ứng dụng công nghệ chưa cao, vừa phải đầu tư hệ thống phần cứng, phần mềm, vừa phải đầu tư vào con người, tốn nhiều thời gian và chi phí. Nếu đầu tư theo hướng tự động hoá của các mô hình và phần mềm nước ngoài thì tốn nhiều chi phí đầu tư ban đầu; còn nếu tự làm ra mô hình nội bộ thì mất nhiều thời gian, khó khăn, chi phí nguồn nhân lực IT… nên doanh nghiệp chưa mạnh dạn hoặc không có khả năng đầu tư.

Hiện tại, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin trong các công đoạn logistics còn thấp và chưa đồng đều, nên ngành đối mặt với vấn đề lớn là khả năng kết nối, đồng bộ chuỗi dữ liệu logistics để tạo thành cơ sở dữ liệu dùng chung cho doanh nghiệp và cơ quan quản lý Nhà nước. Cùng với đó, một số nguyên tắc chưa có trong luật và quản lý Nhà nước cũng tạo ra rào cản cho số hoá trong logistics như chưa có luật về logistics, luật về e-logistics, thủ tục hành chiń h cũng phức tạp… nên ứng dụng thanh toán điện tử, hóa đơn điện tử cho cả quá trình logistics không thể ứng dụng đồng bộ.

Bên cạnh những hạn chế, ông Lê Huỳnh Minh Tú, Phó Giám đốc Sở Công Thương Tp. Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, hai điểm sáng trong chuyển đổi số trong ngành logistics ở Tp. Hồ Chí Minh là 99% phương tiện vận tải đã được gắn hộp đen giám sát hành trình GPS và dữ liệu hành trình đã được đồng bộ về trung tâm điều hành. Còn tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) đạt 72,4%, chủ yếu trong các khâu khai báo hải quan, xử lý vận đơn của nhà vận chuyển.

]]>
Khơi thông “mạch máu” logistics – Bài 1: Mắt xích kết nối thương mại https://tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-1-mat-xich-ket-noi-thuong-mai/ Mon, 02 Jan 2023 03:30:31 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/khoi-thong-mach-mau-logistics-bai-1-mat-xich-ket-noi-thuong-mai/

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng của nước ta hiện nay, việc tập trung đầu tư, có các chính sách phù hợp để thúc đẩy phát triển logistics là vô cùng quan trọng. Có thể nói, logistics là “mạch máu” kết nối chuỗi sản xuất – lưu thông hàng hóa trong nước và giao thương với thị trường thế giới.

 

Nhằm phản ánh những lợi thế cũng như hạn chế của ngành logistics nước ta hiện nay, nhất là những ghi nhận từ thực tế tại Tp.Hồ Chí Minh, TTXVN thực hiện chùm 4 bài viết với chủ đề “Khơi thông “mạch máu” logistics”.

Bài 1: Mắt xích kết nối thương mại

Sự “lên ngôi” của các xu hướng vận chuyển, logistics và chuỗi cung ứng mới trong nền kinh tế số đã giúp Việt Nam trở thành một thị trường mới nổi đầy tiềm năng, nhưng hiện thực hóa những tiềm năng này cần một chính sách tổng thể. Theo đó, xác định logistics là mắt xích quan trọng kết nối thương mại trong và ngoài nước, Tp. Hồ Chí Minh đã và đang tập trung đầy đủ các loại hình logistics như cảng biển, cảng sông, cảng hàng không, ga hàng hóa… nhưng lĩnh vực này vẫn còn một số hạn chế nhất định.

Top thị trường logistics mới nổi

Thị trường Logistics Việt Nam được xếp hạng thứ 11 trong nhóm 50 thị trường logistics mới nổi toàn cầu nhờ sự “chuyển mình” mạnh mẽ của cộng đồng doanh nghiệp cung cấp và sử dụng dịch vụ logistics. Dự báo, tỷ lệ tăng trưởng kép hằng năm (CAGR) giai đoạn 2022-2027 của thị trường logistics Viêt Nam sẽ đạt mức 5,5%.

Ngành dịch vụ logistics đang phát triển nhanh và mạnh tại Việt Nam theo sự tăng trưởng của hoạt động xuất nhập khẩu, cũng như dịch vụ bán lẻ, phân phối… Đặc biệt, muốn nâng cao hiệu quả chuỗi cung ứng, cải thiện dịch vụ, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp, góp phần cắt giảm chi phí, giá thành thì doanh nghiệp phải sử dụng đa dạng ứng dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh, mà logistics là một mắc xích quan trọng.

Trong điều kiện hiện nay, khi cả nước nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đang bước vào thời kỳ mới – thời kỳ hội nhập sâu rộng về kinh tế, nhất là thị trường thương mại tự do vừa mang lại cơ hội, vừa đặt ra nhiều thách thức cho hầu hết ngành nghề, lĩnh vực.

Việt Nam đã ký kết và tham gia 17 Hiệp định Thương mại tự do (FTA); trong đó, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP),  Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA)… là các FTA thế hệ mới với nội dung toàn diện và sâu sắc hơn.

Thực thi các FTA chính là quá trình gỡ bỏ dần rào cản thuế quan và phi thuế quan, mang đến kỳ vọng mở rộng thị trường cho cả xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối, bán lẻ… nội địa. Thương mại gia tăng còn tạo ra nhu cầu và động lực cho sự phát triển của dịch vụ logistics; ngược lại logistics chính là nền tảng và “bệ đỡ” cho sự tăng trưởng của kinh tế.

Ông Hoàng Quang Phòng, Phó Chủ tịch Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để phát triển dịch vụ logistics và những năm qua, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, thúc đẩy tăng trưởng ngành logistics. Mới đây, Quyết định 221/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định 200/QĐ-TTg về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025 với nhiều giải pháp toàn diện, thể hiện rõ cam kết của Chính phủ nhằm kiến tạo môi trường thuận lợi, nâng cao năng lực cạnh tranh và giảm bớt chi phí logistics.

Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại nên doanh nghiệp cần tổ chức thực hiện một hoặc nhiều khâu. Về phía địa phương, đòi hỏi phải có một chính sách tổng thể từ thu hút đầu tư tới cải thiện cơ sở hạ tầng, thủ tục hành chính… và các cơ quan chức năng đã và đang xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ và hiệu quả.

Bà Lê Thị Ngọc Diệp, Giám đốc Thương Mại, Công ty SLP Việt Nam chia sẻ, hiện nền tảng hệ thống kho bãi của Việt Nam nói chung, Tp. Hồ Chí Minh nói riêng đang có quy chuẩn chưa cao. Đồng thời, còn khá nhiều doanh nghiệp logistics chưa cung ứng sâu rộng các dịch vụ trong toàn bộ chuỗi cung ứng.

Ngoài ra, nhu cầu về vị trí kho vận tiệm cận khu vực nội đô như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội… cũng như nhu cầu xây dựng kho vận quy chuẩn theo hệ thống toàn cầu ngày một tăng cao. Còn hệ thống cung cấp các chuỗi dịch vụ logistics thiếu sự tích hợp, chưa áp dụng số hóa trong quản lý, tự động hóa trong vận hành vẫn là khái niệm mới mẽ.

Trong khi đó, nhu cầu về hệ thống kho vận hiện đại kết hợp tự động hóa, đáp ứng sự phát triển của những nhà bán lẻ và ngành thương mại điện tử tại Việt Nam là rất cao. Hơn thế nữa, với sự bùng nổ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đã có nhiều ứng dụng khoa học công nghệ vào hoạt động logistics tại Việt Nam.

Yêu cầu hạ tầng bền vững

Liên quan đến phát triển bền vững lĩnh vực logistics, một số chuyên gia cho rằng, cần được tiếp cận lĩnh vực logistics ở góc độ tổng thể là các dịch vụ vận tải, kho bãi, đóng gói, kiểm định, giao nhận hàng hóa… dùng để chuyên chở nguyên vật liệu đến từng nhà máy sản xuất, và vận chuyển toàn bộ sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Để phát triển ngành logistics, Tp.Hồ Chí Minh nói riêng vẫn còn nhiều thách thức, hạn chế cần được nhận diện, phân tích để có những giải pháp và chính sách phù hợp.

Hay nói cách khác, dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công việc, gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hành chính, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao… Trong những năm qua, tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ logistics của doanh nghiệp Tp.Hồ Chí Minh tăng trưởng trung bình 14%.

Báo cáo của Sở Công Thương Tp. Hồ Chí Minh cho thấy, thành phố đã và đang tập trung đầy đủ các loại hình logistics: cảng biển, cảng s
ông, cảng hàng không, ga hàng hóa. Thống kê trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh, có 5 cảng cạn (ICD) đang hoạt động tại khu vực phường Trường Thọ, quận Thủ Đức, bao gồm: ICD Tracomexco – Phước Long 3, ICD Transimex, ICD Sotrans, ICD Tây Nam – Tanamexco, ICD Phúc Long, với tổng diện tích 50,2 ha (nếu tính cả Phước Long 1 và Kho bãi Thành phố thì tổng diện tích là 63 ha), với 1.112m cầu cảng, có khả năng tiếp nhận tàu 5.000 tấn.

Đến nay, trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh cũng đã có 1.505 kho hàng; trong đó, 520 kho của doanh nghiệp sản xuất. Những kho hàng này, chủ yếu phát triển quy mô lớn nhỏ khác nhau tùy vào nhu cầu của chủ hàng. Nhìn tổng thể hệ thống kho hàng và trung tâm phân phối tại khu vực Tp. Hồ Chí Minh đang có xu hướng thu hẹp, chuyển dần về phía các tỉnh Bình Dương và Đồng Nai.

Tuy nhiên, hệ thống kho lạnh trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh chưa phát triển, ít người đầu tư, kinh doanh… trong khi nhu cầu kho lạnh khá cao, dẫn đến khó thuê được kho lạnh và cước lưu kho cao. Đồng thời, hệ thống giao thông nội thành và liên tỉnh chưa đầy đủ, cũng như một số dự án vẫn chờ thời gian hoàn thành dự án trong tương lai mới có thể tạo điều kiện thuận lợi cho thu hút đầu tư, kinh doanh kho lạnh trên địa bàn thành phố.

Hiện nay, hoạt động vận tải chiếm khoảng 55%-65% chi phí logistics được thống kê thuộc nhóm cao nhất trong các dịch vụ, sản phẩm thuộc chuỗi cung ứng. Dữ liệu hành trình của các phương tiện vận tải đã được áp dụng, nhưng việc khai thác, phân tích dữ liệu này thành cơ sở đề xuất hay đưa ra những quyết định liên quan đến quy hoạch giao thông, bố trí bãi đậu xe nội thành hay khu vực trung chuyển hàng hóa vẫn chưa được khai thác.

Hoạt động vận tải vốn là mắt xích quan trọng trong lưu thông hàng hoá, tác động trực tiếp đến hiệu quả của logistics đối với hoạt động xuất nhập khẩu lẫn thương mại điện tử. Tuy nhiên, Tp. Hồ Chí Minh chưa có những trung tâm logistics đáp ứng tiêu chí trong Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 03/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ.

Theo ông Bùi Tá Hoàng Vũ, Giám đốc Sở Công Thương Tp. Hồ Chí Minh, để giải quyết những vấn đề quan trọng của hạ tầng logistics, việc hình thành trung tâm logistics hiện đại, đáp ứng nhu cầu thực tế hiện nay là hết sức bức thiết. Theo Đề án phát triển logistics Tp. Hồ Chí Minh đến 2025 và tầm nhìn 2030 của Sở Công Thương Tp. Hồ Chí Minh, căn cứ vào nhu cầu sản xuất, lưu thông hàng hóa trong khu vực và xuất nhập khẩu, đồng thời trên cơ sở rà soát nguồn quỹ đất hiện có để phả triển 7 trung tâm logistics đạt chuẩn.

Về giải pháp hợp tác, liên kết vùng như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng bằng sông Cửu Long… nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải, xây dựng những tuyến đường vành đai và nhất là hệ thống đường cao tốc Tp. Hồ Chí Minh kết nối địa phương. Cụ thể, Tp. Hồ Chí Minh và các tỉnh, thành phân chia vai trò trong chuỗi dịch vụ ngành logistics, trong đó Tp. Hồ Chí Minh hướng tới cung cấp dịch vụ giá trị cao trong chuỗi dịch vụ logistics xuất khẩu và phân phối nội địa.

Còn các tỉnh, thành lân cận hướng tới trở thành những trung tâm logistics vệ tinh là nơi tập trung dịch vụ logistics cơ bản phục vụ cho hàng hóa được sản xuất tại địa phương trước khi xuất khẩu qua cụm cảng khu vực Tp. Hồ Chí Minh. Trên cơ sở này, các địa phương “bắt tay” tạo sự thuận lợi trong vận tải, thương mại hàng hóa nội địa và quốc tế bằng việc rút ngắn thời gian vận chuyển, tăng chất lượng dịch vụ logistics.

 

]]>