#suy thoái kinh tế – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:28:34 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #suy thoái kinh tế – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 Dự báo tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp dược giảm tốc trong 2023 https://tindoanhnhan.com/du-bao-tang-truong-loi-nhuan-doanh-nghiep-duoc-giam-toc-trong-2023/ Mon, 06 Mar 2023 04:05:24 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/du-bao-tang-truong-loi-nhuan-doanh-nghiep-duoc-giam-toc-trong-2023/

Các chuyên gia từ Công ty cổ phần Chứng khoán SSI cho biết bối cảnh sau đại dịch sẽ ổn định ở hầu hết các khía cạnh, nhưng suy thoái kinh tế có thể làm đình trệ chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe.

Dự báo tăng trưởng lợi nhuận doanh nghiệp dược giảm tốc trong 2023

Công nhân làm việc tại Nhà máy dược ADC Cần Thơ. (Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Ngành dược vừa trải qua một năm kinh doanh đầy khởi sắc khi nhiều doanh nghiệp dược lãi lớn, thậm chí là lãi kỷ lục.

Dù vậy, năm 2023, giới phân tích đánh giá tăng trưởng của ngành sẽ hạn chế, lợi nhuận có thể ghi nhận mức thấp hơn trước khi tăng dần lên.

Các chuyên gia từ Công ty cổ phần Chứng khoán SSI (SSI) cho biết bối cảnh sau đại dịch sẽ ổn định ở hầu hết các khía cạnh, nhưng suy thoái kinh tế có thể làm đình trệ chi tiêu cho chăm sóc sức khỏe.

Nửa đầu năm 2023 sẽ là khoảng thời gian khó lường đối với nguồn cung hoạt chất (API) và tá dược. Khoảng 65% API được sử dụng trong việc sản xuất thuốc tại Việt Nam là từ Trung Quốc – quốc gia đã mở cửa trở lại, nhưng SSI lo ngại tình trạng thiếu hụt vẫn có thể xảy ra.

Thêm vào đó, cuộc chiến giữa Nga-Ukraine vẫn đang diễn ra, các hoạt chất và thuốc nhập khẩu từ châu Âu có nguy cơ bị thiếu hụt.

Các công ty có thể sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước sẽ giành được vị thế tốt hơn. SSI kỳ vọng doanh thu ngành sẽ tăng 8%, đạt 169.000 tỷ đồng (7,2 tỷ USD) vào năm 2023.

SSI cũng cho rằng cuộc đua về nâng cấp chất lượng đang diễn ra tại các công ty dược phẩm lớn. Nhiều công ty như Công ty cổ phần Dược Hậu Giang (mã chứng khoán: DHG), Công ty cổ phần Dược phẩm IMEXPHARM (mã chứng khoán: IMP), Công ty cổ phần Dược-Trang thiết bị Y tế Bình Định (mã chứng khoán: DBD), Công ty cổ phần TRAPHACO (mã chứng khoán: TRA) và Công ty cổ phần Dược phẩm Cửu Long (mã chứng khoán: DCL) đang đặt mục tiêu đạt tiêu chuẩn Thực hành sản xuất tốt theo tiêu chuẩn châu Âu (EU GMP) cho các cơ sở sản xuất của họ.

Các sản phẩm được sản xuất tại nhà máy đạt tiêu chuẩn EU GMP sẽ được xét vào nhóm thuốc chất lượng cao nhất trong đấu thầu ở bệnh viện công (nhóm 1). Các công ty trong nước hy vọng sẽ đấu thầu được sản phẩm với giá cao hơn trước nhưng vẫn thấp hơn nhiều loại thuốc nhập khẩu thuộc nhóm này.

Theo ước tính của SSI, chỉ có 6% thuốc trong nhóm 1 được sản xuất trong nước, phần còn lại chủ yếu là thuốc nhập khẩu. Ngoài ra, việc nâng cấp EU GMP sẽ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm và nâng cao khả năng cạnh tranh.

Đến cuối năm 2022, chỉ có 8 công ty sở hữu dây chuyền sản xuất đạt tiêu chuẩn EU GMP hoặc tương đương tại Việt Nam. Tuy nhiên, với chi phí đầu tư ban đầu và chi phí duy trì cao, các yêu cầu khắt khe và thời gian phê duyệt kéo dài, các công ty sẽ phải cân nhắc việc theo đuổi cuộc đua này hoặc đầu tư vào các mảng khác để có thể mang lại lợi nhuận tốt hơn.

Các chuyên gia từ SSI cho rằng tình trạng thiếu vật tư và nhân lực tại các bệnh viện công dự kiến sẽ được cải thiện từ quý 2/2023. Bộ Y tế đang đề xuất Luật Khám chữa bệnh (sửa đổi) để giải quyết những bất cập về khung pháp lý mà các bệnh viện công đang gặp phải, đặc biệt là vấn đề giá khám chữa bệnh thấp và quy trình đấu thầu đã nêu trên.

Trong năm 2023, mức phí khám chữa bệnh ở bệnh viện công sẽ tăng lên và hoạt động bán thuốc kê đơn qua kênh bệnh viện sẽ phục hồi. Cho tới khi vấn đề được giải quyết, nhóm bệnh viện tư nhân sẽ được hưởng lợi từ lượng bệnh nhân mà các bệnh viện công không thể phục vụ.

SSI cho biết năm 2022 chứng kiến sự phục hồi mạnh trong chi tiêu chăm sóc sức khỏe. Doanh thu ngành chăm sóc sức khỏe tăng 25% so với năm 2021, đạt 155.000 tỷ đồng (khoảng 6,6 tỷ USD), cao hơn đáng kể so với mức trước COVID-19 (doanh thu năm 2019 đạt 4,7 tỷ USD).

Động lực tăng trưởng của các doanh nghiệp dược phẩm

Hầu hết các công ty đều ghi nhận tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận ròng ở mức hai con số trên mức nền thấp của phân khúc ETC (kênh đấu thầu tại sở và bệnh viện) trong năm 2021, dù phải đối mặt với nhiều thách thức như gián đoạn chuỗi cung ứng và chiến dịch chống tham nhũng trong ngành y tế.

Thực tế năm 2022, nhu cầu tiêu thụ thuốc tăng cao, đặc biệt là các sản phẩm kháng sinh và các sản phẩm phòng bệnh, tăng cường hệ miễn dịch sau dịch COVID-19 đã giúp cho nhiều công ty hoạt động trong ngành dược phẩm thu về kết quả tích cực.

Cụ thể năm 2022, Công ty cổ phần Dược Hậu Giang có doanh thu thuần đạt 4.676 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ. Công ty báo lãi khoảng 988 tỷ đồng, tăng 27% so với năm trước đó và vượt 29% kế hoạch đề ra.

Dược Hậu Giang cho biết doanh thu tăng do sự gia tăng nhu cầu tiêu thụ thuốc, đặc biệt là các sản phẩm kháng sinh và các sản phẩm phòng bệnh, tăng cường hệ miễn dịch. Công ty cũng chủ động tăng dự trữ nguyên liệu, thành phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường và tổ chức chặt chẽ hệ thống phân phối và kết nối tốt với khách hàng.

Vì lãi lớn nên Dược Hậu Giang vừa thống nhất trình cổ đông kế hoạch chi trả cổ tức năm 2022 với tỷ lệ 35%, cao hơn so với kế hoạch đề ra tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2021.

Cụ thể, công ty dự kiến tăng tỷ lệ chia cổ tức bằng tiền mặt cho năm 2022 từ 30% lên mức 35%. Tương ứng với mỗi cổ phiếu, cổ đông sở hữu sẽ nhận về 3.500 đồng. Ngày đăng ký cuối cùng là 17/3. Với 130,75 triệu cổ phiếu DHG đang lưu hành, Dược Hậu Giang sẽ chi khoảng 458 tỷ đồng cho đợt trả cổ tức này.

Động lực tăng trưởng của các doanh nghiệp dược phẩm

(Ảnh: Thanh Liêm/TTXVN)

Tếp dến, trường hợp của Công ty cổ phần Dược phẩm OPC (mã chứng khoán: OPC) còn lập mức lãi kỷ lục. Theo đó năm 2022, doanh nghiệp có lãi ròng 142,4 tỷ đồng, tăng 15,4% so với năm trước. So với kế hoạch, doanh nghiệp đã vượt 2% chỉ tiêu doanh thu và vượt 3% mục tiêu lợi nhuận năm.

Tương tự, Công ty cổ phần Dược phẩm Trung ương 1 (Pharbaco, mã chứng khoán: PBC) cũng là một trong những doanh nghiệp báo lãi lớn trong năm qua khi ghi nhận lợi nhuận sau thuế hơn 62 tỷ đồng, tăng 125% so với cùng kỳ và vượt 15% kế hoạch đề ra.

Các doanh nghiệp như Công ty cổ phần Traphaco báo lãi ròng 293,4 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2022, Công ty cổ phần SPM (mã chứng khoán: SPM) báo lãi tăng 22% lên mức 24,6 tỷ đồng, CTCP Dược-Trang thiết bị Y tế Bình Định có lợi nhuận tăng trưởng 29% đạt 244 tỷ đồng, Công ty cổ phần dược phẩm Trung ương CPC1 (mã chứng khoán: DP1) báo lãi năm 2022 ở mức 50,5 tỷ đồng, tăng 12% so với năm trước, Dược phẩm Dược liệu Pharmedic (mã chứng khoán: PMC) lãi 83,4 tỷ đồng, tăng 29% so với năm 2021…

Giới phân tích nhận định, bước sang năm 2023, doanh nghiệp dược phải đối mặt với những thách thức khiến lợi nhuận có thể giảm tốc tăng trưởng.

Tuy nhiên, về dài hạn, ngành dược có nhiều tiềm năng tăng trưởng cho cả các công ty sản xuất, cũng như những tập đoàn bán lẻ do quy mô dân số Việt Nam ở mức lớn đồng thời dân số đang bước vào giai đoạn “già hóa.” Tỷ lệ dân số vàng của Việt Nam đang nằm ở mức đỉnh và đang bắt đầu bước vào thời kỳ già hóa dân số với tốc độ nhanh.

Theo Tổng cục Dân số-Kế hoạch hóa gia đình (cơ quan trực thuộc Bộ Y tế), Việt Nam sẽ trở thành nước có dân số già vào năm 2038 với tỷ lệ người 60 tuổi trở lên đạt trên 20%. Thậm chí, đến năm 2049, tỷ lệ người cao tuổi sẽ chiếm khoảng 25% dân số.

Ngoài ra, nhận thức của người tiêu dùng đối với chăm sóc sức khỏe ngày càng cao và thu nhập của người dân cũng tăng cao hơn khiến chi tiêu cho hoạt động chăm sóc sức khỏe nói chung và tiêu thụ dược phẩm bình quân đầu người sẽ nhiều hơn./.

]]>
Suy thoái toàn cầu chỉ đang bị trì hoãn chứ không biến mất? https://tindoanhnhan.com/suy-thoai-toan-cau-chi-dang-bi-tri-hoan-chu-khong-bien-mat/ Sun, 05 Mar 2023 01:20:01 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/suy-thoai-toan-cau-chi-dang-bi-tri-hoan-chu-khong-bien-mat/

Hai số liệu mới công bố đang kể những câu chuyện hoàn toàn khác nhau về sức khỏe của nền kinh tế thế giới. Những chỉ báo ngắn hạn thì lạc quan song những tín hiệu dài hạn cho thấy kinh tế toàn cầu đang hướng đến một cuộc suy thoái. Trong khi kinh tế Mỹ và châu Âu có thể khó tránh được cú sốc suy thoái thì yếu tố Trung Quốc có thể là tín hiệu “gây nhiễu” trong bức tranh toàn cảnh thế giới.

Các số liệu gần đây chỉ ra rằng, kinh tế châu Âu và Mỹ đang tăng tốc trở lại sau khi đứng bên bờ vực suy thoái kinh tế trong năm ngoái. Với việc tránh được kịch bản “hạ cánh cứng”, các nền kinh tế trên đang hướng tới một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mới dựa vào tăng trưởng việc làm cùng với những hậu quả lạm phát đi kèm. Quan điểm này nhanh chóng trở nên phổ biến và khiến thị trường trái phiếu toàn cầu trị giá 130.000 tỷ USD “dậy sóng”. Lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 2 năm đã tăng vọt 80 điểm cơ bản kể từ đầu tháng 2/2023 – mức cao nhất kể từ giữa năm 2007 ngay trước khi hệ thống tài chính quốc tế sụp đổ.

Trong khi đó, những thước đo truyền thống đang cho thấy triển vọng ảm đạm hơn. Chỉ số kinh tế tổng hợp của về Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới (G20) do Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) thu thập đã giảm trong 17 tháng liên tiếp và vẫn chưa cho thấy xu hướng ổn định. Chỉ số này – dự đoán nền kinh tế thực trong 6-9 tháng tới – ở mức thấp suy thoái mới là 98,4 (điểm) vào tháng 1/2023. Chỉ số kinh tế tổng hợp cho Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7) thậm chí còn thấp hơn ở mức 98,1 (điểm) và thấp hơn bất kỳ thời điểm nào trước hoặc trong cuộc suy thoái bắt nguồn từ bong bóng công nghệ (dotcom) vào đầu những năm 2000.

Lakshman Achuthan, nhà kinh tế thuộc Viện nghiên cứu chu kỳ kinh tế (ECRI, Mỹ), cho biết các nền kinh tế lớn đang bước vào chu kỳ suy giảm, và đó là điều chưa từng thấy kể từ cuộc Đại Suy thoái.

Công ty nghiên cứu kinh tế Capital Economics cho biết, bộ phận giám sát thương mại toàn cầu của họ vẫn chưa phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy thương mại toàn cầu đã tạo đáy. Quý IV/2022 chứng kiến một trong những giai đoạn sụt giảm lớn nhất trong thương mại hàng hóa thế giới kể từ những năm 1980, và các chỉ số hàng đầu cho thấy xu hướng giảm còn tiếp diễn.

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) đang thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ và thu hẹp cung tiền. Trong khi đó, tỷ lệ nợ công và nợ tư nhân đã tăng vọt lên lần lượt là 292% GDP ở các nền kinh tế giàu có (theo dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế – IMF) và 247% GDP trên toàn cầu. Mức nợ tư nhân hiện nay cao hơn 50 điểm phần trăm so với bong bóng nợ trước thềm cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng năm 2008 bắt đầu với việc ngân hàng đầu tư lớn thứ tư của Mỹ Lehman Brothers nộp đơn xin phá sản vào ngày 15/9/2008.

Tình trạng hiện nay vẫn chưa dẫn đến các vụ vỡ nợ tín dụng nghiêm trọng ở phương Tây, song một loạt quốc gia đang phát triển như Ai Cập, Pakistan, Tunisia, El Salvador, Liban, Sri Lanka và Ghana đang gặp nhiều khó khăn.

Các công ty kéo dài thời gian đáo hạn nợ khi tiền còn rẻ, tạo cho họ một bộ đệm tài chính. Tuy nhiên, những tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt vẫn chưa phản ánh hết và đã có những dấu hiệu về một cuộc khủng hoảng tín dụng có thể xuất hiện ở châu Âu. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global cho biết các công ty Mỹ có hồ sơ tín dụng yếu hơn so với trước cuộc khủng hoảng Lehman, và áp lực tái cấp vốn đang gia tăng.

Chỉ số giá nhà quốc gia Case-Shiller đã đạt đỉnh vào tháng 6/2022 và kể từ đó đã giảm 4,4%. Một nghiên cứu mới của chi nhánh Fed tại Dallas dự báo giá nhà có thể giảm 20% ở Mỹ, với mức giảm tương đương ở Đức và cảnh báo nguy cơ gây ra “hiệu ứng domino” đối với nền kinh tế vĩ mô trên toàn cầu.

Một thước đo đáng chú ý khác là đường cong lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ hiện đang đảo ngược. Chênh lệch lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm so với trái phiếu kỳ hạn 2 năm đã đảo ngược từ 9 tháng trước và hiện giảm xuống mức âm 88 – mức thấp nhất trong gần 50  năm trở lại. Các cuộc suy thoái thường xảy ra sau một năm hoặc lâu hơn sau khi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ bắt đầu đảo ngược.

Một câu hỏi đặt ra là, liệu các phương pháp tính toán truyền thống có “vô dụng” trong một nền kinh tế vốn bị ảnh hưởng mạnh bởi đại dịch COVID-19 và sự gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu? Nhiều nhà quan sát tin rằng, các chỉ báo và mô hình trong quá khứ dường như đã “lỗi thời” trong nền kinh tế kỹ thuật số hiện đại, tuy nhiên, có những lý do cho thấy nguy cơ suy thoái chưa hoàn toàn biến mất.

Chuyên gia Matt King của ngân hàng Citigroup nhận định, các ngân hàng trung ương đã bổ sung 1.000 tỷ USD thanh khoản ngắn hạn trong ba tháng qua, và về cơ bản họ đang thực hiện nới lỏng định lượng (QE) ngay cả khi họ nói rằng họ đang thắt chặt chính sách tiền tệ. Thực tế vẽ ra một bức tranh kinh tế tiêu cực và bấp bênh.

Một khi các ngân hàng trung ương tăng lãi suất cao hơn, lạm phát chắc chắn sẽ được kiểm soát nhưng nguy cơ kinh tế toàn cầu rơi vào suy thoái sâu cũng cận kề.
 

]]>
Giới chuyên gia lo ngại về nguy cơ kinh tế Hàn Quốc suy thoái https://tindoanhnhan.com/gioi-chuyen-gia-lo-ngai-ve-nguy-co-kinh-te-han-quoc-suy-thoai/ Thu, 23 Feb 2023 03:05:58 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/gioi-chuyen-gia-lo-ngai-ve-nguy-co-kinh-te-han-quoc-suy-thoai/

Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức công bố nền kinh tế nước này đang tăng trưởng chậm lại.

Giới chuyên gia lo ngại về nguy cơ kinh tế Hàn Quốc suy thoái

Người dân di chuyển trên đường phố tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Nguồn: TTXVN

Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức công bố nền kinh tế nước này đang tăng trưởng chậm lại. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đại dịch COVID-19 bùng phát vào năm 2020, “suy thoái kinh tế’ được đưa vào Sách Xanh – báo cáo đánh giá kinh tế hằng tháng bao gồm những nhận định chính thức của chính phủ về tình hình kinh tế.

Ông Lee Seung-han, Trưởng bộ phận phân tích kinh tế của Bộ Chiến lược và Tài chính, cho biết, lý do chính phủ thừa nhận rằng những lo ngại về suy thoái kinh tế đã trở thành hiện thực là do xuất khẩu và tiêu dùng trì trệ trong bối cảnh giá cả tiếp tục ở mức cao.

Xuất khẩu, xương sống của nền kinh tế Hàn Quốc vốn đã có xu hướng giảm trong tháng Một năm nay, đang tiếp tục giảm ở mức hai con số trong tháng Hai. Lượng xuất khẩu trung bình hàng ngày tính đến ngày 10/2 đã giảm 14,5% so với cùng kỳ một năm trước. Xuất khẩu chất bán dẫn, chiếm khoảng 20% tổng xuất khẩu của Hàn Quốc, đã giảm 40,7% trong giai đoạn này.

Kết quả, cán cân thương mại hàng hóa cộng dồn từ ngày 1-10/2 thâm hụt 4,971 tỷ USD. Nếu cán cân thương mại hàng tháng tiếp tục thâm hụt trong tháng Hai, điều đó có nghĩa là Hàn Quốc đã gánh chịu thâm hụt thương mại trong một năm liên tiếp kể từ tháng 3/2022.

Trong tháng 1/2023, Hàn Quốc ghi nhận thâm hụt thương mại ở mức cao kỷ lục là 12,69 tỷ USD, đánh dấu 11 tháng thâm hụt liên tiếp. Hàn Quốc là nước phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu năng lượng nên đã chịu tác động lớn từ chi phí năng lượng tăng vọt.

Bên cạnh đó, giá tiêu dùng (thước đo chính của lạm phát) ở Hàn Quốc trong tháng trước cũng tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2022, cao hơn mức tăng 5% của tháng 12/2022. Đây cũng là tháng thứ 9 liên tiếp lạm phát của Hàn Quốc ở mức từ 5% trở lên.

Bộ Chiến lược và Tài chính Hàn Quốc lần đầu tiên bày tỏ lo ngại về suy thoái kinh tế vào tháng Sáu năm ngoái. Trong bảy tháng tiếp theo, Bộ này đã đưa ra đánh giá tương tự. Sau đó, Bộ đã thay đổi cách diễn đạt thành “gia tăng mối lo ngại về suy thoái kinh tế” vào tháng 1/2023, một lời cảnh báo lớn hơn về nguy cơ với nền kinh tế. Trong tháng Hai, các chuyên gia phân tích của chính phủ đã tiến thêm một bước và nhận định rằng nền kinh tế Hàn Quốc đã bước vào giai đoạn suy thoái kinh tế.
Ngay trong quý IV/2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hàn Quốc là -0,4%, mức tăng trưởng âm đầu tiên trong hai năm rưỡi kể từ quý II/2020 với mức -3,0%.

Trong bối cảnh lãi suất cơ bản tiếp tục được đẩy cao để đối phó lạm phát, xu hướng hạn chế tiêu dùng của người dân là điều có thể nhận thấy rõ ràng. Trong quý IV/2022, tiêu dùng cá nhân tại nước này đã giảm 0,4% so với quý trước.

Tiêu dùng vốn đã phục hồi kể từ khi Chính phủ Hàn Quốc bãi bỏ các quy định về giãn cách xã hội vào đầu năm 2022. Song với việc lãi suất tăng cao và mức tăng giá cao tiêu dùng cao, xu hướng giảm đã xuất hiện rõ ràng. Doanh số tại các cửa hàng bách hóa và cửa hàng giảm giá tháng trước cũng giảm lần lượt 3,7% và 2,8% so với cùng thời điểm một năm trước.

Khi suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến thị trường việc làm, cảm giác khủng hoảng về “ thất nghiệp vì suy thoái” đang gia tăng. Số lượng việc làm ngành chế tạo trong tháng Một đã giảm 35.000 vị trí so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu lần đầu tiên chuyển sang mức âm sau 15 tháng kể từ tháng 10/2021.
Giáo sư Kim Jung-sik thuộc Khoa Kinh tế tại Đại học Yonsei nhận định khi số dư tài khoản vãng lai thâm hụt, các quỹ nước ngoài sẽ chảy khỏi Hàn Quốc. Tỷ giá hối đoái giữa đồng won và USD sẽ tăng trở lại và có thể lên mức 1.500 won đổi 1 USD. Nếu điều này xảy ra, đó sẽ là một cú sốc lớn hơn cho nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, Hàn Quốc không có lựa chọn nào khác ngoài việc tăng chi tiêu tài khóa để bình thường hóa và kích thích nền kinh tế trong nước.

Ngân hàng trung ương Hàn Quốc (BoK) tháng Một vừa qua công bố báo cáo nhận định nền kinh tế Hàn Quốc năm 2023 dự kiến đạt mức tăng trưởng 2,6%. Tuy nhiên, Bộ Chiến lược và Tài chính Hàn Quốc dự báo nền kinh tế nước này năm 2023 chỉ đạt mức tăng trưởng 1,6% do ảnh hưởng từ các động thái thắt chặt tiền tệ toàn cầu.

]]>
Hoạt động kinh doanh của các nhà sản xuất lớn Nhật Bản còn ảm đạm do suy thoái toàn cầu https://tindoanhnhan.com/hoat-dong-kinh-doanh-cua-cac-nha-san-xuat-lon-nhat-ban-con-am-dam-do-suy-thoai-toan-cau/ Wed, 22 Feb 2023 10:17:38 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/hoat-dong-kinh-doanh-cua-cac-nha-san-xuat-lon-nhat-ban-con-am-dam-do-suy-thoai-toan-cau/

Theo 1 cuộc thăm dò từ hãng tin Reuter, hoạt động kinh doanh của các nhà sản xuất lớn ở Nhật Bản vẫn ảm đạm trong tháng 2 và tâm trạng chung của ngành dịch vụ đã bước sang tháng thứ 2 liên tiếp trầm lắng. Một dấu hiệu cho thấy sự suy giảm toàn cầu đang kìm hãm đà phục hồi của đất nước sau COVID-19.

Hoạt động kinh doanh của các nhà sản xuất lớn Nhật Bản còn ảm đạm do suy thoái toàn cầu

Một nhân viên làm việc trên dây chuyền lắp ráp ô tô tại nhà máy phía nam Tokyo. Nguồn: Reuters.

Cuộc khảo sát doanh nghiệp hàng tháng của Reuters Tankan cho thấy chỉ số tâm lý đối với các nhà sản xuất lớn đứng ở mức -5 trong tháng 2, ít thay đổi so với -6 của tháng trước.

Lòng tin trong lĩnh vực dịch vụ giảm trong tháng thứ hai liên tiếp xuống còn 17, giảm từ mức cao nhất trong ba năm là +25 được ghi nhận vào tháng 12/2022 và nhấn mạnh những lo ngại về tiêu dùng tư nhân, chiếm hơn một nửa nền kinh tế Nhật Bản.

Các câu hỏi thăm dò ý kiến cho cuộc khảo sát về tình hình kinh doanh ​​từ ngày 8 đến ngày 17/2 đã được gửi tới 493 công ty phi tài chính lớn của Nhật Bản, trong đó 244 công ty đã trả lời, tất cả đều với điều kiện ẩn danh.

Các nhà sản xuất trong các tiểu ngành như máy móc điện, ô tô và thiết bị vận tải nằm trong số ít lạc quan nhất, với các chỉ số tâm lý tiêu cực sâu sắc, phản ánh tình trạng kinh doanh thua lỗ của các công ty do sản lượng ô tô giảm và thiếu chip.

Cuộc thăm dò cho thấy nhiều công ty cũng phàn nàn về việc tăng giá năng lượng và hàng hóa cũng như sự yếu kém của đồng Yen, cả hai yếu tố đã làm tăng hóa đơn nhập khẩu và tăng chi phí kinh doanh.

Giám đốc một công ty gia công kim loại viết trong cuộc khảo sát: “Chúng tôi không thể chuyển chi phí nguyên vật liệu, khí đốt và điện ngày càng tăng sang cho khách hàng của mình. Ngoài ra, tiền lương cũng tăng lên, tất cả đều bóp nghẹt môi trường kinh doanh”.

Các công ty thận trọng trong việc tăng chi tiêu vốn để tăng xuất khẩu một phần do chiến tranh ở Ukraine, xích mích giữa Mỹ và Trung Quốc và khả năng lây nhiễm gia tăng ở Trung Quốc sau khi dỡ bỏ các biện pháp kiểm soát COVID-19.

“Việc Nga xâm lược Ukraine kéo dài, chi phí năng lượng tăng đột biến, giá cả tăng và lãi suất tăng dường như không chỉ làm giảm nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng mà còn cả đầu tư kinh doanh”, một nhà quản lý tại một nhà sản xuất máy móc chia sẻ.

Một người quản lý tại một công ty vận tải cho biết: “Tình trạng thiếu chip, đồng Yen yếu, giá nguyên liệu thô tăng, khủng hoảng Ukraine, tình trạng thiếu nhiên liệu và cây trồng góp phần tô màu xám cho bức tranh sau đại dịch.”

Kết quả khảo sát của Tankan cũng cho thấy vào tháng 12/2022, lòng tin của các nhà sản xuất lớn đã trở nên sa sút trong quý cuối cùng của năm 2022 xuống mức thấp nhất trong gần hai năm, do áp lực chi phí và triển vọng nhu cầu toàn cầu chậm lại.

Nền kinh tế Nhật Bản đã ngăn chặn suy thoái trong quý IV nhưng phục hồi chậm hơn nhiều so với dự kiến ​​do đầu tư kinh doanh sụt giảm.

]]>
Bộ trưởng Tài chính Mỹ: Sẽ không có nguy cơ suy thoái kinh tế https://tindoanhnhan.com/bo-truong-tai-chinh-my-se-khong-co-nguy-co-suy-thoai-kinh-te/ Tue, 07 Feb 2023 10:24:15 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/bo-truong-tai-chinh-my-se-khong-co-nguy-co-suy-thoai-kinh-te/

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen khẳng định giảm lạm phát vẫn là ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Joe Biden, nhưng nền kinh tế Mỹ đang tỏ ra “mạnh mẽ và vững chãi.”

Bộ trưởng Tài chính Mỹ: Sẽ không có nguy cơ suy thoái kinh tế

Người dân mua sắm tại một siêu thị ở Millbrae, bang California, Mỹ. (Ảnh: THX/TTXVN)

Bộ trưởng Tài chính Mỹ Janet Yellen ngày 6/2 nhận định sẽ không có suy thoái kinh tế trong bối cảnh tình trạng lạm phát giảm đáng kể và nền kinh tế Mỹ vẫn vững chắc, nhờ sức mạnh của thị trường lao động.

Phát biểu trên truyền hình ABC, bà Yellen tuyên bố: “Chúng ta sẽ không gặp tình trạng suy thoái kinh tế khi có 500.000 việc làm và tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất trong hơn 50 năm qua. Những gì tôi đang chứng kiến là một hướng đi vững vàng với tỷ lệ lạm phát đang sụt giảm đáng kể và nền kinh tế vẫn vững mạnh.”

Theo bà Yellen, tuy lạm phát vẫn ở mức cao nhưng đã giảm liên tục trong 6 tháng qua và có thể giảm đáng kể do các biện pháp được chính quyền Tổng thống Joe Biden áp dụng, bao gồm giảm chi phí xăng dầu và giá thuốc bán theo đơn.

Nữ bộ trưởng khẳng định giảm lạm phát vẫn là ưu tiên hàng đầu của Tổng thống Joe Biden, nhưng nền kinh tế Mỹ đang tỏ ra “mạnh mẽ và vững chãi.”

Ngoài ra, với 3 bộ luật riêng biệt – bao gồm Đạo luật Giảm lạm phát, Đạo luật CHIPS và Khoa học cùng với Luật Cơ sở hạ tầng – sẽ giúp giảm lạm phát, đồng thời với việc áp đặt giới hạn “giá trần” đối với dầu mỏ của Nga.

Tăng trưởng GDP quý 4 năm 2022 của Mỹ cao hơn so với dự báo

Ngoài ra, bà Yellen tiếp tục kêu gọi Quốc hội Mỹ nâng giới hạn trần nợ, cảnh báo rằng nếu không làm sẽ tạo ra “một thảm họa kinh tế và tài chính.”

Dữ liệu của Bộ Lao động Mỹ công bố hôm 3/2 cho thấy tốc độ tăng trưởng việc làm tăng mạnh trong tháng 1/2023, với số lượng việc làm phi nông nghiệp tăng thêm 517.000 và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất kể từ năm 1969 là 3,4%. Trước đó, giới nghiên cứu kinh tế dự đoán chỉ có thêm 187.000 người được tuyển dụng trong tháng đầu năm nay.

Trong thông báo gửi khách hàng, ông Andrew Hunter, chuyên gia công ty nghiên cứu kinh tế độc lập Capital Economics ở London (Anh), viết: “Nền kinh tế rõ ràng chưa sắp suy thoái như chúng ta nghi ngờ.”

Mức tăng trưởng việc làm cao hồi tháng Giêng có lẽ sẽ không được Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) hoan nghênh vì họ đang mong việc làm và tiền lương tăng trưởng chậm lại để giảm lạm phát và giúp Fed thực hiện kế hoạch ngưng tăng lãi suất quyết liệt trong mấy tháng tới.

Fed đã tăng lãi suất cơ bản 8 lần kể từ tháng 3/2022, trong đó có 4 lần tăng 0,75 điểm phần trăm liên tiếp.

Tuy nhiên, Tổng thống Biden đã hoan nghênh báo cáo này, cho rằng đây là bằng chứng cho thấy nền kinh tế Mỹ đang tiếp tục cải thiện. Bản báo cáo có thể sẽ làm giảm “phàn nàn” của đảng Cộng hòa đối với hoạt động chi tiêu của chính quyền Tổng thống Biden.

Ngoài ra, mức tăng trưởng việc làm của 2 tháng cuối năm ngoái trên thực tế cao hơn ước tính ban đầu khoảng 71.000 vị trí việc làm.

Số liệu điều chỉnh cho thấy số người tìm được việc làm trong tháng 11/2022 từ 256.000 được sửa lại thành 290.000, và con số của tháng 12/2022 được điều chỉnh lại từ 223.000 thành 260.000./.

]]>
Châu Âu có thể tránh được một cuộc suy thoái đáng sợ trong năm 2023 https://tindoanhnhan.com/chau-au-co-the-tranh-duoc-mot-cuoc-suy-thoai-dang-so-trong-nam-2023/ Wed, 18 Jan 2023 03:29:57 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/chau-au-co-the-tranh-duoc-mot-cuoc-suy-thoai-dang-so-trong-nam-2023/

Phát biểu trước cuộc họp hàng tháng, Ủy viên Kinh tế EU Paolo Gentiloni cho biết mặc dù tình hình kinh tế của khối vẫn chưa chắc chắn nhưng đã có một số tín hiệu đáng khích lệ.

Châu Âu có thể tránh được một cuộc suy thoái đáng sợ trong năm 2023

Trụ sở của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) ở Frankfurt am Main, Đức. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Những tín hiệu kinh tế khả quan cho thấy châu Âu có thể tránh được một cuộc suy thoái đáng sợ trong năm 2023.

Theo phóng viên TTXVN tại Berlin, giới chức kinh tế của Liên minh châu Âu (EU) ngày 16/1 đã đưa ra tầm nhìn lạc quan hơn cho tương lai kinh tế của khối, với dữ liệu mới nhất cho thấy “lục địa già” có thể tránh được một cuộc suy thoái nghiêm trọng như dự đoán vài tháng trước.

Phát biểu trước cuộc họp hàng tháng với các bộ trưởng tài chính Khu vực đồng euro (Eurozone) tại Brussels (Bỉ), Ủy viên Kinh tế EU Paolo Gentiloni cho biết mặc dù tình hình kinh tế của khối vẫn chưa chắc chắn… nhưng đã có một số tín hiệu đáng khích lệ. Ông Gentiloni nói: “Chúng tôi đã cố gắng giảm sự phụ thuộc vào năng lượng, giá mặt hàng này giảm đáng kể và lạm phát đã đạt đỉnh cuối năm 2022. Vì vậy, có cơ hội để châu Âu tránh được suy thoái sâu và có thể bước vào một giai đoạn kinh tế giảm chậm lại và hạn chế hơn.”

Mặc dù có chung đánh giá với ông Gentiloni, nhưng Ủy viên thương mại EU Valdis Dombrovskis nói thêm rằng châu Âu vẫn nên thận trọng. Phát biểu trước báo giới, ông nói: “Rõ ràng, chúng ta đang chứng kiến một số dấu hiệu tích cực, như thị trường lao động của EU vẫn rất mạnh. Cũng có một số dấu hiệu cho thấy lạm phát có thể đã đạt đỉnh. Nhưng tôi muốn nói rằng chúng ta phải cảnh giác.”

Những đánh giá trên được đưa ra ngay sau một báo cáo hồi đầu tháng này nhấn mạnh rằng hoạt động kinh doanh trong khu vực tư nhân của Eurozone giảm ít hơn dự đoán.

Chỉ số nhà quản lý mua hàng (PMI) của S&P Global cho biết nền kinh tế Eurozone tiếp tục giảm trong tháng 12/2022, nhưng mức nghiêm trọng của suy thoái đã được điều chỉnh trong tháng thứ hai liên tiếp, điều này cho thấy sự trì trệ trong nền kinh tế có thể nhẹ hơn so với dự đoán ban đầu.

Trong khi đó, theo kết quả khảo sát của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), công bố ngày 16/1, gần 2/3 các nhà kinh tế cấp cao của khu vực công và tư nhân cho rằng suy thoái kinh tế toàn cầu có thể xảy ra trong năm nay. Khoảng 18% số người được hỏi coi suy thoái kinh tế là rất có thể xảy ra.

Mặc dù 1/3 cho rằng có thể tránh được suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn có sự đồng thuận về quan điểm cho rằng triển vọng tăng trưởng kinh tế ở châu Âu và Mỹ là ảm đạm.

Trong một tuyên bố cùng ngày, Giám đốc điều hành WEF Saadia Zahidi cho biết: “Môi trường lạm phát cao, tăng trưởng thấp, nợ công và phân hóa cao hiện nay đang làm giảm động lực cho các khoản đầu tư cần thiết để phục hồi tăng trưởng và nâng cao mức sống cho những người dễ bị tổn thương nhất trên thế giới.”

Tuần trước, Bộ trưởng Kinh tế Đức Robert Habeck cũng dự báo nền kinh tế lớn nhất châu Âu sẽ rơi vào suy thoái trong năm 2023 do tác động của cuộc khủng hoảng năng lượng sau khi Nga cắt giảm nguồn cung khí đốt liên quan đến cuộc xung đột tại Ukraine. Theo ông Habeck, nền kinh tế Đức dự báo sẽ giảm 0,4% trong năm nay khi khủng hoảng năng lượng chưa hoàn toàn được kiểm soát.

Theo số liệu được công bố tuần trước, kinh tế Đức đạt tăng trưởng 1,9% trong năm 2022, giảm so với mức 2,6% được ghi nhận vào năm 2021.

]]>
Mỹ: Các ngân hàng lớn chuẩn bị cho kịch bản kinh tế suy thoái https://tindoanhnhan.com/my-cac-ngan-hang-lon-chuan-bi-cho-kich-ban-kinh-te-suy-thoai/ Sun, 15 Jan 2023 07:18:48 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/my-cac-ngan-hang-lon-chuan-bi-cho-kich-ban-kinh-te-suy-thoai/

Ngày 13/1, bốn ngân hàng lớn của Mỹ vừa công bố báo cáo kết quả kinh doanh quý IV/2022 với các giám đốc điều hành dự báo khả năng kinh tế Mỹ “suy thoái nhẹ”, với lạm phát và lãi suất tăng đang thách thức các hộ gia đình và doanh nghiệp nước này.

Ngân hàng lớn nhất của Mỹ, JPMorgan Chase, quyết định trích lập dự phòng nợ xấu 1,4 tỷ USD, với lưu ý rằng kịch bản chính mà ngân hàng này đưa ra là kinh tế Mỹ có thể “suy thoái nhẹ” với tỷ lệ thất nghiệp cao hơn một chút.

Ngân hàng Bank of America (BoA) cũng trích 403 triệu USD để đề phòng nợ xấu, với Giám đốc điều hành BoA Brian Moynihan đề cập đến “môi trường kinh tế ngày càng chậm lại”. Ngân hàng Citigroup dành 640 triệu USD và ngân hàng Wells Fargo dành 397 triệu USD cho các mục đích tương tự.

Giám đốc tài chính của Citigroup Mark Mason mô tả triển vọng sắp tới là suy thoái cấp quốc gia (Mỹ) chứ không phải là suy thoái toàn cầu. Ông Mason cho rằng mùa Đông có nhiệt độ lạnh vừa phải ở châu Âu đến nay là một yếu tố cải thiện triển vọng kinh tế sắp tới, đồng thời lưu ý rằng các khoản nợ tín dụng quá hạn vẫn đang ở mức đặc biệt thấp. Đây là một dấu hiệu cho thấy khả năng phục hồi của người tiêu dùng. Ông Mason sự đoán, kinh tế Mỹ sẽ suy thoái nhẹ vào cuối năm 2023 và “rất dễ kiểm soát”.

Nhà phân tích Patrick O’Hare của trang phân tích thị trường chứng khoán Briefing.com lưu ý rằng Giám đốc điều hành JPMorgan Jamie Dimon đã cảnh báo vào năm ngoái về một “cơn bão” kinh tế tiềm tàng. Các ngân hàng đang chuẩn bị cho một cuộc suy thoái nhẹ, nhưng đó không phải là “hạ cánh cứng”.

Việc bổ sung trích lập dự phòng trong quý IV/2022 phản ánh sự thay đổi so với giai đoạn cùng kỳ năm 2021, khi nhiều ngân hàng tăng chi tiêu để tìm kiếm lợi nhuận lớn hơn. Ngân hàng JPMorgan có lợi nhuận đạt 11 tỷ USD, tăng 6% so với một năm trước, trong khi doanh thu tăng 18% lên 34,5 tỷ USD. Ông Dimon chỉ ra rằng, nền kinh tế Mỹ hiện vẫn mạnh với người tiêu dùng vẫn có lượng tiền mặt dư thừa và các doanh nghiệp hoạt động tốt. Tuy nhiên, xung đột Nga-Ukraine, lạm phát dai dẳng và chính sách thắt chặt tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) là những “cơn gió ngược”, đồng thời nói thêm rằng ngân hàng vẫn cảnh giác và sẵn sàng cho bất cứ điều gì xảy ra. Ông Dimon, người đã đưa ra cảnh báo trong nhiều tháng về những trở ngại kinh tế vĩ mô lớn có thể dẫn đến suy thoái nhẹ hoặc nghiêm trọng, cho biết quan điểm của ông không thay đổi.

Trong khi đó, BoA có lợi nhuận đạt 6,9 tỷ USD, tăng 2% so với một năm trước nhờ doanh thu tăng 11% lên 24,5 tỷ USD. Citigroup chứng kiến lợi nhuận quý IV/2022 giảm 21% xuống còn 2,5 tỷ USD, trong khi doanh thu tăng 6% lên 18 tỷ USD. Wells Fargo báo cáo doanh thu quý IV/2022 giảm 50% xuống còn 2,9 tỷ USD, phần lớn là do khoản lỗ 3,3 tỷ USD liên quan đến các vấn đề pháp lý. 

]]>
Các ngân hàng Mỹ xây dựng quỹ dự phòng ứng phó với suy thoái kinh tế https://tindoanhnhan.com/cac-ngan-hang-my-xay-dung-quy-du-phong-ung-pho-voi-suy-thoai-kinh-te/ Wed, 11 Jan 2023 03:22:41 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/cac-ngan-hang-my-xay-dung-quy-du-phong-ung-pho-voi-suy-thoai-kinh-te/

Sáu ngân hàng lớn nhất nước Mỹ này dự kiến xây dựng quỹ dự phòng trị giá 5,7 tỷ USD để chuẩn bị cho các khoản vay khó đòi, cao hơn gấp đôi so với 2,37 tỷ USD được dành ra một năm trước.

Các ngân hàng Mỹ xây dựng quỹ dự phòng ứng phó với suy thoái kinh tế

Trụ sở ngân hàng JPMorgan Chase ở New York, Mỹ. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Trong tuần này, các ngân hàng khổng lồ của Mỹ dự kiến sẽ báo cáo lợi nhuận quý 4/2022 thấp hơn khi họ đang chuẩn bị quỹ dự phòng để ứng phó với nguy cơ suy thoái kinh tế.

Bốn “gã khổng lồ” trong ngành ngân hàng Mỹ gồm JPMorgan Chase & Co, Bank of America Corp, Citigroup Inc và Wells Fargo & Co sẽ báo cáo doanh thu vào ngày 13/1.

Cùng với Morgan Stanley và Goldman Sachs, sáu ngân hàng lớn nhất nước Mỹ này dự kiến xây dựng quỹ dự phòng trị giá 5,7 tỷ USD để chuẩn bị cho các khoản vay khó đòi, cao hơn gấp đôi so với 2,37 tỷ USD được dành ra một năm trước.

Theo Refinitiv, sáu ngân hàng trên dự kiến sẽ báo cáo lợi nhuận ròng trong quý 4 giảm trung bình 17% so với một năm trước.

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang tăng lãi suất mạnh mẽ trong nỗ lực chế ngự lạm phát gần mức cao nhất trong nhiều thập kỷ.

Giá cả và chi phí vay cao hơn đã khiến người tiêu dùng và doanh nghiệp hạn chế chi tiêu. Với vai trò trung gian kinh tế, các ngân hàng chứng kiến lợi nhuận sụt giảm khi hoạt động kinh tế chậm lại.

Trong những tuần gần đây, một loạt lãnh đạo cấp cao của các ngân hàng đã cảnh báo về môi trường kinh doanh khó khăn hơn và buộc họ phải cắt giảm lương thưởng hoặc việc làm.

Hai nguồn tin thân cận cho biết Goldman Sachs sẽ bắt đầu sa thải hàng ngàn nhân viên từ ngày 11/1. Morgan Stanley và Citigroup cũng  cắt giảm việc làm sau khi mảng ngân hàng đầu tư lao dốc.

Theo dữ liệu từ Dealogic, doanh thu của mảng ngân hàng đầu tư toàn cầu giảm xuống 15,3 tỷ USD trong quý 4, giảm hơn 50% so với quý trước.

David Fanger, quan chức cấp cao tại Moody’s Investors Service nhận định thời kỳ chất lượng tín dụng cao đang khép lại.

Tuy nhiên, nhìn rộng hơn, chỉ số KBW của cổ phiếu ngân hàng đã tăng khoảng 4% trong tháng này sau khi giảm gần 28% trong năm ngoái.

Susan Roth Katzke, nhà phân tích tại Credit Suisse, cho rằng một số ngân hàng lớn có thể vượt qua những dự đoán tồi tệ nhất vì họ đã loại bỏ các mảng kinh doanh rủi ro. Bên cạnh đó, các ngân hàng vẫn có thể thu lợi từ chính sách tăng lãi suất.

]]>
Giá dầu thế giới giảm hơn 4% do lo ngại suy thoái kinh tế gia tăng https://tindoanhnhan.com/gia-dau-the-gioi-giam-hon-4-do-lo-ngai-suy-thoai-kinh-te-gia-tang/ Wed, 04 Jan 2023 04:10:38 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/gia-dau-the-gioi-giam-hon-4-do-lo-ngai-suy-thoai-kinh-te-gia-tang/

Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 2/2023 giảm xuống còn 76,93 USD/thùng trên sàn giao dịch hàng hóa New York; trong khi giá dầu Brent giảm còn 82,1 USD/thùng trên sàn giao dịch ICE London.

Giá dầu thế giới giảm hơn 4% do lo ngại suy thoái kinh tế gia tăng

 Bơm xăng cho phương tiện tại một trạm xăng ở Mỹ

Giá dầu thế giới giảm mạnh trong phiên giao dịch 3/1 trong bối cảnh ngày càng có nhiều lo ngại về triển vọng kinh tế toàn cầu.

Giá dầu ngọt nhẹ Mỹ (WTI) giao tháng 2/2023 giảm 3,33 USD (4,15%) xuống 76,93 USD/thùng trên sàn giao dịch hàng hóa New York. Giá dầu Brent giao tháng 3/2023 cũng giảm 3,81 USD (4,43%) xuống 82,1 USD/thùng trên sàn giao dịch ICE London.

Giá dầu giảm do các thương nhân lo lắng về triển vọng nhu cầu ảm đạm khi nền kinh tế toàn cầu chậm lại.

Giá dầu tại châu Á phiên 3/1 biến động trong biên độ hẹp

Kristalina Georgieva, Giám đốc điều hành của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), vừa cảnh báo rằng năm 2023 sẽ “khó khăn” hơn với lưu ý rằng một phần ba nền kinh tế thế giới có thể rơi vào suy thoái.

Đồng USD cũng tăng giá mạnh. Chỉ số đồng USD, thước đo của đồng bạc xanh so với sáu đồng tiền chủ chốt, đã tăng 0,95% vào cuối phiên giao dịch hôm thứ Ba (3/1). Giá dầu thông thường diễn biến tỷ lệ nghịch với đồng USD./.

]]>
2023 có thể là một năm ảm đạm hơn của kinh tế toàn cầu https://tindoanhnhan.com/2023-co-the-la-mot-nam-am-dam-hon-cua-kinh-te-toan-cau/ Thu, 29 Dec 2022 01:02:10 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/2023-co-the-la-mot-nam-am-dam-hon-cua-kinh-te-toan-cau/

Trong lúc nhiều quốc gia đang chật vật với cuộc khủng hoảng sinh hoạt phí vì giá năng lượng và lượng thực tăng vọt, biến đổi khí hậu đang gây ra những thiệt hại lớn đối với nền kinh tế toàn cầu.

2023 có thể là một năm ảm đạm hơn của kinh tế toàn cầu

Người dân mua sắm tại một chợ ở Ozumba (Mexico). (Ảnh: AFP/TTXVN)

Năm 2022 được cho là một năm hồi sinh sau đại dịch của kinh tế toàn cầu, nhưng thực tế lại được đánh dấu bởi một cuộc xung đột mới, lạm phát cao kỷ lục và các thảm họa do biến đổi khí hậu. Theo một số dự báo, năm 2023 có thể là một năm ảm đạm hơn.

Tình hình phức tạp

Giáo sư về kinh tế vĩ mô tại Đại học Amsterdam, Roel Beetsma, cho rằng số cuộc khủng hoảng đã gia tăng kể từ đầu thế kỷ. Kể từ Chiến tranh Thế giới thứ hai, thế giới chưa từng chứng kiến tình hình phức tạp như vậy.

Sau cuộc khủng hoảng kinh tế do đại dịch vào năm 2020, giá tiêu dùng bắt đầu tăng trong năm 2021, khi các nước dỡ bỏ phong tỏa và các hạn chế khác.

Các ngân hàng trung ương khẳng định rằng lạm phát sẽ chỉ là tạm thời, khi các nền kinh tế trở lại bình thường. Tuy nhiên, xung đột giữa Nga và Ukraine vào cuối tháng Hai đã khiến giá năng lượng và lương thực tăng vọt.

Nhiều nước đang chật vật với các cuộc khủng hoảng sinh hoạt phí do lương tăng không theo kịp lạm phát, buộc các gia đình đứng trước những lựa chọn khó khăn trong việc chi tiêu.

Các ngân hàng trung ương đã bắt đầu tăng lãi suất trong năm nay, trong nỗ lực nhằm kiềm chế lạm phát, với nguy cơ khiến các nước rơi vào suy thoái, do lãi suất tăng có nghĩa các hoạt động kinh tế chậm lại.

Lạm phát cuối cùng đã bắt đầu hạ nhiệt tại Mỹ và Khu vực sử dụng đồng euro (Eurozone).

Chi tiêu thận trọng

Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), giá tiêu dùng tại Nhóm các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới được cho là sẽ tăng 8% trong quý 4 năm 2022, trước khi tăng chậm hơn, ở mức 5,5%, trong năm 2023.

OECD khuyến khích các chính phủ hỗ trợ nhằm giảm bớt khó khăn cho người dân.

Theo nhóm tư vấn Bruegel, tại Liên minh châu Âu, 674 tỷ euro (704 tỷ USD) đã được chi cho đến nay để hỗ trợ người tiêu dùng khi giá năng lượng cao.

Đức, nền kinh tế lớn nhất châu Âu và là quốc gia phụ thuộc nhiều nhất vào nguồn cung năng lượng từ Nga, chiếm khoảng 264 tỷ euro trong tổng số tiền trên.

Một khảo sát của công ty tư vấn EY cho biết, cứ hai người Đức thì một người nói rằng họ hiện chỉ chi cho các hàng hóa thiết yếu.

Lãi suất tăng cũng ảnh hưởng đến người tiêu dùng và các doanh nghiệp.

Cả Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và Ngân hàng Trung ương châu Âu bắt đầu tăng lãi suất với tốc độ chậm hơn trong tháng 12, nhưng cho rằng vẫn cần tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát.

Các nhà kinh tế nhận định Đức và một nền kinh tế lớn khác ở Eurozone là Italy sẽ rơi vào suy thoái. Kinh tế Anh hiện đang suy giảm. Cơ quan xếp hạng tín nhiệm S&P Global nhận định kinh tế Eurozone sẽ đình trệ trong năm 2023.

Tuy nhiên, Quỹ Tiền tệ Quốc tế vẫn nhận định kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 2,7% trong năm 2023. OECD dự báo mức tăng trưởng 2,2%.

Việc nới lỏng các hạn chế nhằm kiểm soát dịch tại Trung Quốc đưa đến hy vọng về sự phục hồi của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là động lực chính cho tăng trưởng của kinh tế toàn cầu này.

Trong tuần này, Trung Quốc thông báo sẽ dừng thực hiện việc cách ly với người nhập cảnh kể từ ngày 8/1.

Biến đổi khí hậu gây ra những thiệt hại

Với Giáo sư Beetsma, cuộc khủng hoảng lớn nhất là biến đổi khí hậu.

Biến đổi khí hậu gây ra những thiệt hại

Lũ lụt tại Pakistan gây tổn thất 30 tỷ USD trong năm nay. (Ảnh: AFP/TTXVN)

Theo tập đoàn tái bảo hiểm Swiss Re, những thảm họa thiên nhiên và thảm họa do con người gây ra gây thiệt hại kinh tế 268 tỷ USD kể từ đầu năm nay. Riêng cơn bão Ian đã gây thiệt hại được bảo hiểm ước tính là 50-65 tỷ USD.

Lũ lụt tại Pakistan gây tổn thất 30 tỷ USD trong năm nay.

Tại Hội nghị lần thứ 27 các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP27) diễn ra ở Ai Cập tháng 11/2022, các chính phủ đã nhất trí thành lập quỹ để hỗ trợ các nước đang phát triển dễ bị tổn thương do thiên tai.

Tuy nhiên, COP27 kết thúc mà không có những cam kết mới về việc từng bước dừng sử dụng nhiên liệu hóa thạch, dù cần cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính và làm chậm quá trình nóng lên trên toàn cầu.

Ông Beetsma cho rằng đó là một cuộc khủng hoảng kéo dài và nếu thế giới không có những hành động cần thiết, những tác động sẽ là chưa từng có.

]]>