#tăng trưởng tín dụng – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:24:48 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #tăng trưởng tín dụng – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 Bất động sản vẫn trong ‘top’ được vay vốn nhiều nhất https://tindoanhnhan.com/bat-dong-san-van-trong-top-duoc-vay-von-nhieu-nhat/ Fri, 10 Feb 2023 01:16:47 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/bat-dong-san-van-trong-top-duoc-vay-von-nhieu-nhat/

Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng (TCTD) đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế.

 

 Tại Hội nghị Tín dụng bất động sản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức ngày 8/2, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) Hà Thu Giang cho biết, kể từ năm 2017 tới hết năm 2019 (thời điểm trước khi xảy ra dịch COVID-19), tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng trưởng trên 20%/năm; cao hơn mức độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (từ 13-14%) và giữ tỷ trọng từ 18-19% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế.

Năm 2020 và 2021, dưới tác động của dịch COVID-19, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn có sự tăng trưởng tuy nhiên ở mức thấp hơn những năm trước (năm 2020 tăng 12,06%, năm 2021 tăng 15,37%).

Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các TCTD đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế (cao nhất trong 5 năm qua), tỷ lệ nợ xấu là 1,81%. Trong đó, dư nợ tín dụng bất động sản tập trung vào mục đích tiêu dùng/tự sử dụng chiếm 68% và dư nợ đối với hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng 32%.

Doanh số bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai từ năm 2018 tới nay khoảng 110.000 tỷ đồng, bên cạnh đó, các TCTD cũng tích cực triển khai cho vay theo các chương trình về nhà ở.

Kết quả cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02, tính đến thời điểm kết thúc giải ngân tái cấp vốn, doanh số giải ngân của Chương trình là 29.679 tỷ đồng cho hơn 53.000 cá nhân, hộ gia đình, đến cuối năm 2022, dư nợ cho vay của Chương trình là 6.276 tỷ đồng, nợ xấu chiếm 1,55%.

Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) cũng triển khai 5 chương trình cho vay liên quan tới bất động sản với tổng doanh số cho vay 21.602 tỷ đồng, tổng dư nợ 15.440 tỷ đồng chiếm 5,4% trên tổng dư nợ các chương trình cho vay của NHCSXH với trên 262.000 khách hàng đang vay vốn.

 

Bất động sản vẫn trong ‘top’ được vay vốn nhiều nhất

  Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP có doanh số cho vay đạt 12.248 tỷ đồng. Ảnh BĐS. 

Trong đó, chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP có doanh số cho vay đạt 12.248 tỷ đồng, với gần 24.000 căn nhà được xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo để ở, trên 7.000 căn hộ nhà ở xã hội được mua, thuê mua; dư nợ hiện nay là 10.573 tỷ đồng với trên 29.000 khách hàng còn dư nợ.

Kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD

Cũng tại Hội nghị, bà Hà Thu Giang đánh giá, thị trường bất động sản trong thời gian từ năm 2010 đến nay đã trải qua các giai đoạn từ tăng trưởng nóng, trầm lắng tới phục hồi và phát triển ổn định, NHNN đã linh hoạt sử dụng các công cụ, chính sách để điều hành tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, thích ứng với diễn biến thực tế của thị trường nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần duy trì sự phát triển ổn định của thị trường

Đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế khẳng định, điều hành tín dụng chung cũng như tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản đã bám sát chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và mang tính nhất quán, xuyên suốt trong thời gian qua.

NHNN đã chỉ đạo các TCTD ưu tiên cấp tín dụng đối với các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại giá rẻ; các nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và người dân; đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro cấp tín dụng với mục đích đầu cơ để bảo đảm an toàn hệ thống…

Tỷ trọng tín dụng bất động sản trên tổng dư nợ tín dụng chung ổn định ở mức 19%-21%. Tín dụng tập trung chủ yếu vào nhu cầu tự sử dụng (chiếm khoảng 68% dư nợ tín dụng). Dư nợ tín dụng về nhà ở luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 60%).

Như vậy có thể thấy tín dụng bất động sản đã tập trung vào đáp ứng nhu cầu cải thiện chỗ ở của người dân, các chương trình tín dụng ưu đãi về nhà ở cũng đã được triển khai hiệu quả tại NHCSXH cũng như các ngân hàng thương mại, góp phần vào sự phát triển lành mạnh, an toàn của thị trường.

Về một số vấn đề cần lưu ý, theo bà Hà Thu Giang, đối với cơ cấu kỳ hạn dư nợ, nhu cầu tín dụng bất động sản thường là với thời hạn trung và dài hạn (hiện nay khoảng 94% dư nợ có thời gian từ 10-25 năm), trong khi đó nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn với mức lãi suất thay đổi theo thị trường (khoảng 80% là tiền gửi ngắn hạn). Do đó, nếu các TCTD không cân đối được kỳ hạn giữa huy động và cho vay phù hợp, có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản.

Có hiện tượng tập trung cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tại một số TCTD, với tốc độ tăng trưởng cao; một số TCTD cũng cấp tín dụng lớn với một số nhóm khách hàng, với khách hàng đầu tư dàn trải, có nhiều dự án dở dang.

Bên cạnh đó, lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế nhận định, tín dụng bất động sản tập trung chủ yếu ở mục đích tự sử dụng và có sự tăng trưởng rất cao trong thời gian qua…. mặc dù mục đích này theo thống kê là hướng tới nhu cầu thực và được đánh giá rủi ro ít hơn mục đích kinh doanh bất động sản, song tiềm ẩn rủi ro khách hàng kê khai mục đích để phục vụ nhu cầu mua nhà để ở nhưng bản chất là để đầu tư kinh doanh.

Về chất lượng tín dụng, trong năm 2022, tỷ lệ nợ xấu đối với lĩnh vực bất động sản đang có chiều hướng nhích dần lên, đến nay là 1,81% (năm 2021 là 1,67%)…

Qua tổng hợp báo cáo của các ngân hàng; khó khăn, vướng mắc khi cấp tín dụng cho các dự án bất động sản tập trung ở một số vấn đề.

Trước tiên là hệ thống thủ tục pháp lý liên quan đến đất đai, quy hoạch, đầu tư
, đây là vướng mắc rất lớn tồn tại trong thời gian qua.

Về cơ cấu sản phẩm, thị trường đang có sự mất cân đối cung-cầu tại các phân khúc dư thừa nhà ở cao cấp, biệt thự trong khi nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ còn hạn chế; năng lực tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế và phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay, trái phiếu, huy động của người mua nhà.

Đặc biệt, hiện nay, chưa có nguồn vốn dài hạn có tính ổn định cho thị trường, việc huy động vốn qua kênh trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và các doanh nghiệp bất động sản thuộc nhóm ngành phát hành trái phiếu lớn nhất.

 

Kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD

  Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) Hà Thu Giang. Ảnh NHNN.

Gần đây, một số doanh nghiệp bất động sản có những vi phạm trong phát hành trái phiếu gây mất lòng tin của nhà đầu tư, ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trên thị trường trái phiếu. Ngoài việc phải xử lý các trái phiếu đáo hạn (giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn của doanh nghiệp bất động sản 2 tháng cuối năm là 21,4.000 tỷ đồng, trong năm 2023 là 119,1.000 tỷ đồng), nhiều doanh nghiệp còn ứng tiền mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn; việc này sẽ gây áp lực lên dòng tiền, tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dòng vốn tín dụng ngân hàng…

Định hướng trong thời gian tới, bà Hà Thu Giang cho biết, NHNN sẽ tiếp tục bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, điều hành tín dụng theo hướng tập trung đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành tín dụng bất động sản phù hợp để bảo đảm an toàn hệ thống và hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và bền vững.

NHNN tiếp tục chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đáp ứng vốn cho nền kinh tế trong đó có lĩnh vực bất động sản, nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng phù hợp với thực tiễn; tăng cường công tác, giám sát; phòng, chống, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng; bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD.

Phối hợp với các bộ, ngành để hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển bền vững đồng thời kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD.

]]>
ACBS: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong khoảng 5,9 – 6,4% trong năm 2023 https://tindoanhnhan.com/acbs-kinh-te-viet-nam-se-tang-truong-tot-trong-khoang-59-64-trong-nam-2023/ Thu, 19 Jan 2023 07:36:09 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/acbs-kinh-te-viet-nam-se-tang-truong-tot-trong-khoang-59-64-trong-nam-2023/

Đây là thông tin đáng chú ý vừa được Chứng khoán ACB (ACBS) đưa ra cho hai kịch bản tăng trưởng kinh tế năm nay.

 

Cụ thể, ở kịch bản tích cực, với giả thuyết tất cả các hoạt động sản xuất công nghiệp sẽ không thu hẹp trong 6 tháng đầu năm 2023 và bắt đầu hồi phục trong 6 tháng cuối năm. Ngoài ra, khu vực dịch vụ phục hồi hoàn toàn với sự hỗ trợ của các hoạt giao thông vận tải vận hành bình thường và hoạt động du lịch quốc tế bùng nổ.

ACBS cũng giả định NHNN sẽ cấp hạn mức tín dụng xung quanh mức 12-14% trong năm 2023, CPI sẽ nằm trong tầm kiểm soát của Chính phủ (mục tiêu 4,5%) và không có đợt tăng lãi suất điều hành nào từ NHNN trong năm 2023.

Với những giả định trên, khối phân tích dự báo kinh tế tăng trưởng đạt mức cao nhất 6,4%.

ACBS: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong khoảng 5,9 – 6,4% trong năm 2023

Kịch bản lạc quan. (Nguồn: ACBS).

Kịch bản thứ hai với giả thuyết kém lạc quan hơn, giả định tất cả các hoạt động sản xuất công nghiệp tiếp tục chậm lại và thậm chí giảm nhẹ trong 6 tháng đầu 2023 và cũng bắt đầu hồi phục trong 6 tháng cuối năm nhưng tốc độ hồi phục chậm do nhu cầu suy giảm từ các đối tác thương mại lớn.

Bên cạnh đó, khu vực dịch vụ vẫn phục hồi nhưng không mạnh bằng kịch bản lạc quan. ACBS cũng giả định NHNN sẽ cấp hạn mức tín dụng khoảng 10- 12% trong năm 2023, CPI có thể bật tăng và vượt ra ngoài tầm kiểm soát của Chính phủ (vượt mức mục tiêu 4,5%) và NHNN có thể tăng lãi suất điều hành thêm 0,5% trong năm 2023.

Trong kịch bản này, tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2023 đạt cao nhất 5,9%.

ACBS: Kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng tốt trong khoảng 5,9 – 6,4% trong năm 2023

Kịch bản kém lạc quan hơn. (Nguồn: ACBS).

Mới đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cũng đã đưa ra hai kịch bản tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong năm 2023. Cụ thể, kịch bản thứ nhất, tăng trưởng GDP đạt 6,47%; lạm phát bình quân 4,08%; tăng trưởng xuất khẩu 7,21% và cán cân thương mại là 5,64 tỷ USD.

Kịch bản thứ hai tích cực hơn khi tăng trưởng GDP tăng 6,83%; lạm phát 3,69%; tăng trưởng xuất khẩu 8,43% và cán cân thương mại là 8,15 tỷ USD.

Gần đây, một số tổ chức quốc tế cũng đưa ra dự báo tăng trưởng cho Việt Nam như HSBC dự báo ở mức  5,8%; World Bank nhận định Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức vừa phải ở mức 6,3% do hoạt động xuất khẩu sang các thị trường chính chậm lại. Trong khi đó, Standard Chartered đánh giá kinh tế có thể tăng đến 7,2%.

Các tổ chức cũng khuyến cáo với Việt Nam cần thận trọng trước những rủi ro từ bên ngoài. HSBC cho rằng 2023 sẽ là một năm thách thức. Rủi ro lớn nhất đối với tăng trưởng là những khó khăn trong thương mại đang gia tăng, khi tăng trưởng của các đối tác thương mại lớn được dự báo sẽ chậm lại.

World Bank cũng cảnh báo triển vọng ảm đạm của kinh tế thế giới sẽ đặc biệt khó khăn đối với các nước đang phát triển và thị trường mới nổi.

“Thị trường nội địa cần tiếp tục thận trọng với rủi ro lạm phát tăng cao, có thể vượt ngưỡng 4 – 4,5% do độ trễ của gói phục hồi, phát triển kinh tế – xã hội và dự báo lạm phát ở các nền kinh tế đối tác quan trọng của Việt Nam vẫn ở mức cao. Thực ra con số lạm phát này không quá lớn so với nhiều quốc gia trong khu vực. Việt Nam cần phải thận trọng cân đối giữ thúc đẩy tăng trưởng với kiểm soát lạm phát”, bà Dorsati Madani, chuyên gia kinh tế, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, đánh giá.  

]]>
Tín dụng TP Hồ Chí Minh chảy mạnh vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh https://tindoanhnhan.com/tin-dung-tp-ho-chi-minh-chay-manh-vao-cac-linh-vuc-san-xuat-kinh-doanh/ Fri, 30 Dec 2022 01:46:30 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/tin-dung-tp-ho-chi-minh-chay-manh-vao-cac-linh-vuc-san-xuat-kinh-doanh/

Sau động thái nới “room” tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và một số ngân hàng thương mại công bố giảm lãi suất cho vay, tình hình tiếp cận vốn của doanh nghiệp trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh nhìn chung đã dễ thở hơn.

 

Tuy nhiên, mức lãi suất cho vay ở nhiều ngân hàng thương mại vẫn còn neo ở mức cao, điều này cũng ảnh hưởng ít nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của cộng đồng doanh nghiệp.  

Tín dụng chảy mạnh vào các lĩnh vực sản xuất

Theo ông Trương Tiến Dũng, Tổng Giám đốc Công ty cổ phẩn Kinh doanh Thủy hải sản Sài Gòn, kiêm Phó Chủ tịch Hội Lương thực Thực phẩm Tp. Hồ Chí Minh (FFA), sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố nới room tín dụng vào đầu tháng 12/2022, bản thân doanh nghiệp của ông và các doanh nghiệp trong FFA đã được ngân hàng giải ngân các khoản vay đăng ký trước đó.

Đặc biệt, các doanh nghiệp thuộc chương trình bình ổn thị trường của thành phố cũng đã được tiếp cận với chính sách ưu đãi lãi suất, với mức lãi suất thấp hơn mặt bằng chung từ 1-2%. Qua đó, kịp thời giúp doanh nghiệp có thêm dòng vốn lưu động để triển khai kế hoạch sản xuất kinh doanh vào mùa cao điểm cuối năm cũng như trong năm mới.

Sau công bố nới room, ông Nguyễn Đình Tùng, Tổng Giám đốc Tập đoàn Vina T&T cũng cho biết, Vina T&T đã được phía ngân hàng giải ngân cho vay. Dù khoản vay chỉ đáp ứng khoảng 15% nhu cầu, song cũng đã hỗ trợ thanh khoản cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể dự chi thưởng Tết cho nhân viên sắp tới.

Thực tế, không chỉ riêng các doanh nghiệp trên, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh có nhu cầu và đủ điều kiện vay vốn đều đã tiếp cận được vốn tín dụng cuối năm, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc 5 lĩnh vực ưu tiên.

Theo ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh, sau động thái nới room tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, nhiều doanh nghiệp trên địa bàn đã tiếp cận được vốn ngân hàng. Chỉ tính riêng trong tháng 12/2022, tín dụng trên địa bàn thành phố đã tăng thêm 1,4%, tương đương với trên 45.000 tỷ đồng tín dụng đã được cung ứng ra thị trường.

Đại diện Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh cho biết, trong năm 2022, tổng dư nợ tín dụng của các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố ước đạt trên 3,23 triệu tỷ đồng, tăng 14% so với cuối năm 2021. Đáng chú ý, dư nợ tín dụng bằng VND chiếm tỷ trọng 94%, tăng tới 15,26% so với cuối năm 2021.

“Tốc độ tăng trưởng tín dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh phù hợp với định hướng điều hành tín dụng của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2022. Trong đó, dòng tín dụng đã tập trung hướng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, hỗ trợ cho chương trình phục hồi tăng trưởng tế của thành phố, với khoảng từ 68-70 % dư nợ tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh”, ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh đánh giá.

Đáng chú ý, các chương trình tín dụng của UBND thành phố, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục phát huy hiệu quả như cho vay 5 nhóm lĩnh vực ưu tiên bao gồm xuất khẩu, nông nghiệp nông thôn, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao với dư nợ khoảng 200.000 tỷ đồng. Đặc biệt, lãi suất cho vay 5 nhóm ngành này chỉ ở mức 5,5%/năm, đã tạo hiệu ứng lan tỏa tốt, hỗ trợ và động lực cho tăng trưởng kinh tế thành phố.

Đã đến lúc dừng cuộc đua lãi suất huy động?

Tại một hội nghị mới đây, ông Phan Văn Mãi, Chủ tịch UBND Tp. Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn mạnh vai trò, sự đóng góp của dòng tín dụng ngân hàng trong quá trình phục hồi kinh tế thành phố trong năm 2022.

Theo ông Phan Văn Mãi, tăng trưởng tín dụng trên địa bàn Tp. Hồ Chí Minh ước đạt 14% trong năm 2022, cao hơn mức tăng trưởng 12,87% của bình quân chung cả nước. Đây là tín hiệu rất đáng mừng không chỉ cho thấy năng lực đáp ứng tốt của ngành ngân hàng, mà còn phản ánh sự hấp thụ tốt của nền kinh tế và đo lường “sức khỏe” của cộng đồng doanh nghiệp thành phố.  

Tuy nhiên, lãnh đạo UBND Tp. Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh bức tranh kinh tế thành phố có nhiều điểm sáng tích, nhưng hầu hết chỉ diễn ra trong 3 quý đầu năm. Từ quý IV/2022 xuất hiện một số dấu hiệu cần phải kiểm tra “sức khỏe” kinh tế thành phố.

Từ dữ liệu báo cáo kinh tế vĩ mô Tp. Hồ Chí Minh quý IV/2022 do Trường đại học Kinh tế – Luật Tp. Hồ Chí Minh thực hiện, Tiến sĩ Phạm Thị Thanh Xuân, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển công nghệ ngân hàng cho rằng, cuộc đua lãi suất huy động vừa qua giữa các ngân hàng thương mại đã đủ dài để các ngân hàng xác lập thị phần và cũng gần đến lúc hạ nhiệt. Nếu diễn biến theo hướng này, việc nới room tín dụng cho năm 2023 mới thực sự phát huy tác dụng, cung vốn hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó trong năm 2023. Ngược lại, càng siết room tín dụng, cuộc đua lãi suất sẽ còn tiếp tục và tạo hiệu ứng tiêu cực cho nền kinh tế.

“Khi đó, quy mô vốn huy động không tăng đột biến. Dòng vốn cơ bản chỉ dịch chuyển giữa các định chế tài chính. Hệ lụy của việc dòng tiền nhàn rỗi “chạy vòng quanh” giữa các ngân hàng là chi phí vốn tăng lên, tác động tới lạm phát và ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong bối cảnh khó khăn”, Tiến sĩ Xuân cho biết.

Thực tế, trong bối cảnh nền kinh tế năm 2023 được dự báo còn nhiều khó khăn thách thức, vai trò dẫn dắt của dòng tín dụng ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phục hồi của cộng đồng doanh nghiệp. Tuy nhiên, trước xu hướng lãi suất còn neo cao như hiện nay, các doanh nghiệp rất khó có được lợi nhuận dương. Do đó, nhiều doanh nghiệp bày tỏ cần sự sẻ chia nhiều hơn từ phía ngành ngân hàng.

Để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, tại hội nghị triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng mới đây, lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, trong năm 2023, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng; đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia…

Về phía
Tp. Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó Giám đốc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh cũng cho biết sẽ tổ chức triển khai thực hiện tốt cơ chế chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và UBND thành phố về các chương trình tín dụng hỗ trợ cho doanh nghiệp.

Đặc biệt, là thực hiện tốt chương trình kết nối doanh nghiệp với nội hàm đó là gắn với gói hỗ trợ lãi suất 2% của Chính phủ cho các nhóm ngành, lĩnh vực ưu tiên. Đồng thời, tiếp tục thực hiện tốt các định hướng của Ngân hàng Nhà nước trong năm 2013, đó là tập trung vào sự ổn định vĩ mô, kiềm giữ lạm phát, hỗ trợ phục hồi kinh tế…

 

]]>
Tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 13% https://tindoanhnhan.com/tang-truong-tin-dung-dat-khoang-13/ Tue, 27 Dec 2022 05:16:18 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/tang-truong-tin-dung-dat-khoang-13/

Sáng 27/12, phát biểu tại buổi họp báo về kết quả hoạt động năm 2022, triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2023, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày hôm nay đạt khoảng 13%.

Tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 21/12, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,78 triệu tỷ đồng, tăng 12,87% so với cuối năm 2021, tăng 13,96% so với cùng kỳ năm 2021.

Bà Hà Thu Giang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Dư nợ tín dụng đối với 23 chương trình tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội đến ngày 30/11 đạt khoảng 279.732 tỷ đồng, tăng 12,81% so với năm 2021 với hơn 6,4 triệu khách hàng còn dư nợ.

Theo bà Hà Thu Giang, căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản nhất là kiểm soát mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, các dự án có quy mô lớn, phân khúc cao cấp…; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận tín dụng ngân hàng.

Trong điều hành lãi suất, 8 tháng của năm 2022, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh, tính từ đầu năm 2022 đến nay, có tổng cộng 340 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu và áp lực lạm phát trong nước gia tăng, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp.

Tuy nhiên, từ tháng 9/2022, lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục điều chỉnh nhanh, mạnh lãi suất điều hành và dự báo còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát.

Để tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành hai lần. Cụ thể, các mức lãi suất điều hành với tổng mức tăng 2%/năm và lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND  kỳ hạn dưới 6 tháng tại tổ chức tín dụng với tổng mức tăng 0,8-2%/năm (vào các ngày 23/9 và 25/10); tăng 1%/năm lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên (vào ngày 25/10).

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, đây là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định thị trường ngoại tệ, tạo dư địa thích ứng mới với các biến động trên thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động, thủ tục hành chính, các khoản chi không cần thiết để có dư địa phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.

Thanh toán không dùng tiền mặt trong 11 tháng đầu năm 2022 đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2021. Giao dịch thanh toán không tiền mặt tăng 85,6% về số lượng và 31,39% về giá trị; qua kênh Internet tăng tương ứng 89,36% và 40,55%; qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 116,1% và 92,3%; qua phương thức QR code tăng tương ứng 182,5% và 210,6%; giao dịch qua POS tăng tương ứng 53,57% và 48,78%; giao dịch qua ATM tăng tương ứng 13,28% và 14,04%.

Điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý

Ông Đào Minh Tú cho biết, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng; đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai quyết liệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”. Trong số đó, đẩy mạnh xử lý nợ xấu; tăng cường thanh tra và nâng cao hiệu quả giám sát an toàn vĩ mô và vi mô; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý đối với các tô chức tín dụng…

Lãnh đao Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo đảm thị trường tiền tệ, ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, thông suốt, bền vững.

Ngoài ra, tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số hoạt động ngân hàng để áp dụng các mô hình kinh doanh mới và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công nghệ tiện ích, an toàn đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng…/.

]]>
HoREA kiến nghị nới ‘chuẩn’ tín dụng trong tình thế ‘bất thường’ https://tindoanhnhan.com/horea-kien-nghi-noi-chuan-tin-dung-trong-tinh-the-bat-thuong/ Sat, 24 Dec 2022 15:15:31 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/horea-kien-nghi-noi-chuan-tin-dung-trong-tinh-the-bat-thuong/

Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh (HoREA) vừa gửi kiến nghị đến Thủ tướng Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về việc đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét khẩn trương tháo gỡ vướng mắc để giúp cho doanh nghiệp và người mua nhà được vay vốn ngân hàng.

HoREA kiến nghị nới ‘chuẩn’ tín dụng trong tình thế ‘bất thường’

Các tòa nhà chung cư bên kênh Tàu Hủ – Bến Nghé, quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: Hồng Đạt/TTXVN

Theo ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP Hồ Chí Minh, HoREA hoan nghênh Ngân hàng Nhà nước ngày 5/12 đã quyết định nới room tín dụng thêm 1,5 – 2% để có thêm khoảng 240.000 tỷ đồng cộng với khoảng 200.000 tỷ đồng còn lại của room tín dụng 14% (cũ) bơm vào nền kinh tế.

Tuy nhiên, đến nay chỉ còn 9 ngày nữa là hết năm 2022, nhìn chung các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp bất động sản và người mua nhà vẫn rất khó vay vốn ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu là do Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại không hạ “chuẩn” tín dụng.

Ông Châu cho rằng, trong tình thế “bất thường” cần ban hành các giải pháp “bất thường” để xử lý kịp thời, hiệu quả và đối với thị trường bất động sản đang rất khó khăn hiện nay. Do đó, Ngân hàng Nhà nước có thể xem xét không nên giữ nguyên “chuẩn” tín dụng trong tình thế “bất thường” hiện nay mà nên nới “chuẩn” tín dụng một chút nhưng vẫn không phải là hạ thấp chuẩn tín dụng so với chuẩn tín dụng bình thường trước đây.

Theo HoREA, hiện nay do Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo các ngân hàng thương mại không hạ chuẩn tín dụng nên các ngân hàng thương mại “không dám” cho vay đối với một số trường hợp.

Cụ thể, doanh nghiệp xin vay khoản tín dụng mới, mặc dù, có tài sản bảo đảm, nhưng không được ngân hàng thương mại chấp thuận, do doanh nghiệp có khoản vay đáo hạn (dù chỉ thuộc nhóm 2, nhóm 3) chưa thanh toán nên không đạt chuẩn tín dụng.

HoREA cho rằng, nếu có được khoản vay mới thì doanh nghiệp có thể triển khai hoạt động đầu tư kinh doanh, tạo được dòng tiền và thanh khoản thì hoàn toàn có thể hoàn trả khoản vay mới và thanh toán khoản vay đáo hạn, có lợi cho cả doanh nghiệp và tổ chức tín dụng cùng “dìu” nhau vượt qua khó khăn.

 

Bên cạnh đó, có trường hợp doanh nghiệp xin vay tín dụng mới và đề nghị được thế chấp bằng trái phiếu doanh nghiệp, do doanh nghiệp đã hết tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, trường hợp này cũng không được ngân hàng thương mại chấp thuận, do ngân hàng không chấp thuận tài sản bảo đảm là trái phiếu nên không đạt “chuẩn” tín dụng.

Về điều này, ông Lê Hoàng Châu cho rằng, nếu có được khoản vay mới và được phép thế chấp bằng trái phiếu doanh nghiệp thì đây là nguồn vốn vay quý giá. Nguồn vốn này có tính chất là “vốn mồi” để doanh nghiệp có thể triển khai hoạt động đầu tư kinh doanh, tạo được dòng tiền và thanh khoản thì hoàn toàn có thể hoàn trả khoản vay mới và các khoản vay cũ. Điều này có lợi cho cả doanh nghiệp và tổ chức tín dụng cùng “dìu” nhau vượt qua khó khăn.

Mặt khác, theo HoREA, hiện nay, hầu như không có căn hộ nhà ở xã hội trên thị trường, trong khi nhiều chủ đầu tư dự án nhà ở thương mại đang thực hiện chính sách giảm giá bán nhà, chiết khấu sâu trên dưới 50% dẫn đến giá bán căn hộ tại một số dự án khoảng 2 tỷ đồng/căn, nhưng người mua nhà ở thương mại chưa vay được tín dụng với lãi suất hợp lý.

Nguyên nhân là do Nghị định 31/2022/NĐ-CP chỉ hỗ trợ lãi suất từ ngân sách nhà nước đối với khoản vay của doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh và Công điện số 1164/CĐ-TTg ngày 14/12/2022 của Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo cung ứng vốn tín dụng kịp thời cho nền kinh tế; cho vay, giải ngân nhanh chóng, đúng trọng tâm, trọng điểm, đúng đối tượng đối với các doanh nghiệp, dự án bất động sản đủ điều kiện. Tuy nhiên, vẫn chưa có chính sách hỗ trợ giảm 2%/năm lãi suất tín dụng hoặc vay với lãi suất thương mại hợp lý cho người mua nhà ở thương mại có mức giá khoảng dưới 1,8 – 2 tỷ đồng/căn.

Thêm vào đó, do gói tín dụng 40.000 tỷ đồng hỗ trợ giảm 2%/năm lãi suất vay theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP, nhưng đến hết tháng 10/2022 mới chỉ giải ngân được khoảng 21.000 tỷ đồng chỉ đạt 52,5%, có khả năng “bị ế” mà nếu không sử dụng hết thì lãng phí nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách nhà nước.

Do vậy, HoREA kiến nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét trình Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định một số chính sách ngắn hạn áp dụng đến hết năm 2023 để hỗ trợ về tín dụng cho doanh nghiệp và người mua nhà.

HoREA đề nghị cho phép tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay khoản tín dụng mới có tài sản bảo đảm trong trường hợp doanh nghiệp có khoản vay đáo hạn (thuộc nhóm 2, nhóm 3) chưa thanh toán với điều kiện doanh nghiệp cam kết thực hiện giao dịch qua tổ chức tín dụng cho vay.

Đồng thời, cho phép tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay khoản tín dụng mới có tài sản bảo đảm là trái phiếu doanh nghiệp được trị giá tối đa bằng 70% giá trị trái phiếu doanh nghiệp với điều kiện doanh nghiệp cam kết thực hiện giao dịch qua tổ chức tín dụng cho vay.

Song song đó, HoREA cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước xem xét trình Chính phủ xem xét sửa đổi, bổ sung Nghị định 31/2022/NĐ-CP cho phép người mua nhà ở thương mại có mức giá dưới 1,8 (hoặc 2) tỷ đồng/căn được hỗ trợ 2%/năm lãi suất vay tín dụng (hoặc với lãi suất hợp lý do Ngân hàng Nhà nước quy định) tính từ ngày giải ngân khoản vay đến thời điểm khách hàng trả hết nợ gốc và/hoặc lãi tiền vay theo thỏa thuận giữa ngân hàng thương mại và khách hàng, nhưng không vượt quá ngày 31/12/2023.

]]>