#tín dụng – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Tue, 22 Jul 2025 08:39:11 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #tín dụng – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 Công cụ Fintech đang làm bình đẳng hóa dịch vụ tài chính cho người yếu thế https://tindoanhnhan.com/cong-cu-fintech-dang-lam-binh-dang-hoa-dich-vu-tai-chinh-cho-nguoi-yeu-the/ Tue, 22 Jul 2025 08:39:09 +0000 https://tindoanhnhan.com/cong-cu-fintech-dang-lam-binh-dang-hoa-dich-vu-tai-chinh-cho-nguoi-yeu-the/

Trong quá khứ, hệ thống tài chính thường tồn tại những hạn chế và bất công, khiến nhiều người gặp khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ tài chính cơ bản. Những cá nhân sống ở khu vực thu nhập thấp hoặc ở các khu vực xa trung tâm thành phố lớn thường phải đối mặt với những rào cản đáng kể khi muốn mở tài khoản ngân hàng hoặc tiếp cận các khoản vay. Các yêu cầu nghiêm ngặt và quy trình lỗi thời của các tổ chức tài chính truyền thống đã vô tình đẩy một phần lớn dân số vào tình trạng bị loại trừ, buộc họ phải tìm kiếm các giải pháp thay thế rủi ro hơn.

Sự ra đời và phát triển của công nghệ tài chính (Fintech) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc thay đổi cục diện này. Với sự xuất hiện của các ứng dụng di động và dịch vụ tài chính đổi mới, Fintech đã và đang mở ra những cơ hội mới để tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho tất cả mọi người, không phân biệt khu vực địa lý hay tình trạng kinh tế. Các giải pháp do Fintech cung cấp không chỉ giúp giảm thiểu các rào cản truyền thống mà còn mang đến sự linh hoạt, tiện lợi và hiệu quả cao hơn cho người dùng.

Một trong những đóng góp nổi bật của Fintech là khả năng cung cấp các dịch vụ tài chính cơ bản thông qua các nền tảng trực tuyến và ứng dụng di động. Điều này cho phép những người sống ở khu vực xa xôi hoặc có thu nhập thấp có thể dễ dàng tiếp cận và sử dụng dịch vụ tài chính mà không cần phải đến trực tiếp tại các chi nhánh ngân hàng. Hơn nữa, Fintech cũng đã phát triển các sản phẩm và dịch vụ tài chính mới, như các khoản vay P2P, nền tảng crowdfunding, và các giải pháp thanh toán kỹ thuật số, giúp mở rộng sự lựa chọn cho người dùng và tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận vốn.

Mặc dù Fintech đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính, vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua. Sự phát triển bền vững và an toàn của Fintech đòi hỏi sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề bảo mật thông tin và xây dựng niềm tin của người dùng. Ngoài ra, việc thiết lập một khung pháp lý phù hợp và cập nhật cũng là yếu tố quan trọng để hỗ trợ sự phát triển của Fintech trong khi đảm bảo an toàn và ổn định của hệ thống tài chính.

Tóm lại, sự phát triển của Fintech đã mở ra những triển vọng mới trong việc tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính cho tất cả mọi người. Bằng cách tiếp tục đổi mới và hợp tác chặt chẽ giữa các bên liên quan, bao gồm cả các doanh nghiệp Fintech, cơ quan quản lý và các tổ chức tài chính truyền thống, chúng ta có thể xây dựng một hệ thống tài chính công bằng và bao quát hơn, hướng tới việc đảm bảo rằng mọi người đều có cơ hội tiếp cận các dịch vụ tài chính cần thiết để phát triển kinh tế và cải thiện chất lượng cuộc sống.

]]>
MAS: Tăng trưởng tín dụng năm nay có thể chỉ đạt 10-12% https://tindoanhnhan.com/mas-tang-truong-tin-dung-nam-nay-co-the-chi-dat-10-12/ Fri, 03 Mar 2023 10:56:02 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/mas-tang-truong-tin-dung-nam-nay-co-the-chi-dat-10-12/

Trong báo cáo ngành ngân hàng từ Công ty Chứng khoán Mirae Asset (MAS) ngày 2/3, nhóm chuyên gia chỉ ra rằng Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đánh giá tăng trưởng tín dụng sơ bộ cho năm nay ước đạt 14 – 15%, tuy nhiên mục tiêu hàng đầu vẫn là ổn định và lành mạnh hóa hoạt động của toàn ngành.

Tăng trưởng tín dụng năm nay có thể chỉ đạt 10-12%

Theo thông tin từ NHNN, tăng trưởng tín dụng mục tiêu cho năm 2023 là khoảng 14-15%. Tuy nhiên, MAS đánh giá áp lực lạm phát cao sẽ phần nào kìm hãm tốc độ tăng trưởng tín dụng.

Cụ thể, trong năm 2023, Việt Nam đưa ra mức lạm phát mục tiêu là dưới 4,5%, điều chỉnh tăng 0,5% so với mức lạm phát mục tiêu dài hạn, nhưng NHNN cũng như giới chuyên gia đều nhận định việc kìm chế lạm phát cũng không đơn giản.

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong 1 năm qua, lạm phát cơ bản tăng liên tục từ 0,66% lên 5,21% vào tháng 1/2023. Việc tăng giá các nhóm hàng hóa và dịch vu thiết yếu như ngành như điện, giáo dục và xăng dầu làm tăng áp lực lạm phát.

MAS cho rằng nguồn tín dụng mới sẽ phần nào tăng thanh khoản của thị trường chung. Tuy nhiên, sự suy giảm chất lượng tài sản trong năm 2022 và các rủi ro nợ xấu do thay đổi môi trường lãi suất sẽ khiến các Ngân hàng Thương mại (NHTM) cẩn trọng hơn trong việc gia tăng tỷ trọng cho các phân ngành/doanh nghiệp có rủi ro cao.

Trước bối cảnh chung như vậy, nhóm phân tích của MAS cho rằng tỷ giá tạm thời ổn định nhưng rủi ro giảm giá đồng nội tệ vẫn còn hiệu hữu do các đợt tăng lãi suất của Fed và nền kinh tế Mỹ vẫn tăng trưởng tốt.

Nhìn chung, dựa trên những yếu tố vĩ mô chưa khả quan, các chuyên gia thận trọng dự phóng tín dụng sẽ chỉ tăng trong khoảng từ 10 – 12% trong năm nay, thấp hơn so với mức tăng trưởng mục tiêu của NHNN. 

Ngoại trừ các ngân hàng có danh mục tín dụng tương đối nhỏ so với toàn ngành, các ngân hàng lớn (bao gồm HDB, MBB, VPB và VCB) có mức tăng tín dụng vượt trội nhờ tích cực hỗ trợ NHNN trong quá trình tái cấu trúc các ngân hàng yếu kém. MAS kỳ vọng nhóm ngân hàng này sẽ tiếp tục nhận được ưu đãi từ các cấp điều hành trong phân bổ hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2023.

Tăng trưởng tín dụng năm nay có thể chỉ đạt 10-12%

 Nguồn: Mirae Asset.

Lãi suất tiếp tục xu hướng tăng trong năm 2023

Nhìn lại quý IV/2022, báo cáo tài chính của các ngân hàng cho thấy tiền gửi của khách hàng tại 27 ngân hàng niêm yết đã tăng đáng kể do mức lãi suất huy động tăng cao ở giai đoạn này khi các ngân hàng thương mại liên tục tăng lãi suất tiền gửi để cải thiện tình hình thiếu thanh khoản.

Tính riêng quý IV, theo MAS, tiền gửi huy động được của nhóm ngân hàng niêm yết chiếm 62% tổng số tiền gửi của cả năm, nâng tổng huy động từ 4,1% cuối quý III/2022 lên tới 10,7% cuối năm 2022. Trong số các loại tài sản có thu nhập cố định, lãi suất tiền gửi vừa hấp dẫn hơn so với trái phiếu chính phủ, vừa có rủi ro thấp hơn nhiều so với trái phiếu doanh nghiệp.

 

Sang 2 tháng đầu năm nay, cuộc đua lãi suất huy động có phần chững lại trong 2 tháng đầu năm nay trong bối cảnh NHNN phát tín hiệu kiềm chế đà tăng lãi suất, đặc biệt là các ngân hàng vừa và nhỏ, để ổn định hoạt động của hệ thống ngân hàng.

Ngoài ra, nhu cầu vốn cho sự tăng trưởng tín dụng giai đoạn cuối năm không quá lớn, đi kèm với sự dồi dào thanh khoản của thị trường liên ngân hàng (lãi suất liên ngân hàng hạ nhiệt). Do đó, lãi suất huy động đã giảm đáng kể và không còn các mức lãi suất huy động vượt 10% (kênh huy động chính thức).

Dự báo cho mặt bằng lãi suất cả năm 2023, nhóm phân tích nhận định việc Fed liên tục tăng lãi suất điều hành có thể làm gia tăng áp lực lên lãi suất trong nước. Hiện tại, mức đỉnh lãi suất kỳ vọng đối với thị trường Mỹ đang là 5% – 5,5%, như vậy lãi suất Fed vẫn có khả năng tiếp tục tăng khoảng 50bps đến 75bps trong hai kỳ họp sắp tới diễn ra vào tháng 3 và tháng 5.

Ngoài ra, mức lãi suất cao được dự kiến sẽ kéo dài đến hết năm 2023. So sánh mức tăng lãi suất điều hành, mức tăng của NHNN (+200bps) thấp hơn nhiều so với mức tăng của Fed (+450bps từ đầu 2022). Điều này có thể dẫn đến dòng chảy ngoại tệ ra khỏi thị trường trong nước.

Nhìn chung, MAS đánh giá nhiều khả năng lãi suất tiếp tục xu hướng tăng trong năm 2023.

Lãi suất tiếp tục xu hướng tăng trong năm 2023

 Lãi suất điều hành của Fed và Việt Nam. Nguồn: Mirae Asset.

Lãi suất tiếp tục xu hướng tăng trong năm 2023

 Nguồn: Mirae Asset

 

Phát biểu tại phiên họp Chính phủ thường kỳ Chính phủ tháng 2 sáng ngày 3/3, Thống đốc NHNN Việt Nam Nguyễn Thị Hồng cho biết từ đầu năm đến nay, đã có thêm 36 lần tăng lãi suất trên thế giới. Điều này khiến USD bắt đầu tăng giá trở lại từ giữa tháng 2/2023. Ngày hôm qua 2/3, chỉ số USD Index ở mức 104.49 điểm, tăng 7,29% so với cùng kỳ năm 2022.

Diễn biến của USD đang tạo áp lực lên điều hành chính sách tiền tệ, ngoại hối của NHNN, bởi cơ quan này vừa phải phấn đấu giảm mặt bằng lãi suất, vừa phải nỗ lực ổn định tỷ giá. Trong bối cảnh đó, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ của chính sách tiền tệ.

Trong 2 tháng đầu năm, NHNN tiếp tục điều hành tỷ giá linh hoạt, phù hợp với tình hình thị trường trong và ngoài nước, thực hiện can thiệp thị trường linh hoạt nhằm giữ ổn định thị trường ngoại tệ. Thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp được đáp ứng đầy đủ.

Nhờ vậy, thị trường ngoại hối, tỷ giá trong nước ổn định, các giao dịch trên thị trường ngoại tệ thông suốt. Tính đến ngày 3/3, VND chỉ mất giá 0,6% so với cuối năm 2022, đây là mức mất giá thấp so với các đồng tiền trong khu vực.

Ngoài tỷ giá, lãi suất là một trong những điểm sáng tích cực khác khi lãi suất huy động thực tế trên thị trường đã bắt đầu giảm. Theo Thống đốc NHNN, lãi suất cho vay bình quân phát sinh mới đã giảm 0,43%/năm. Đã có 22 ngân hàng thương mại giảm lãi suất cho vay. Thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục điều hành theo hướng phấn đấu giảm lãi suất.

Về tín dụng, NHNN đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng cả năm 14-15%, cao hơn năm 2022 và có điều chỉnh tùy theo diễn biến thị trường.

]]>
Bất động sản vẫn trong ‘top’ được vay vốn nhiều nhất https://tindoanhnhan.com/bat-dong-san-van-trong-top-duoc-vay-von-nhieu-nhat/ Fri, 10 Feb 2023 01:16:47 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/bat-dong-san-van-trong-top-duoc-vay-von-nhieu-nhat/

Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các tổ chức tín dụng (TCTD) đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế.

 

 Tại Hội nghị Tín dụng bất động sản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tổ chức ngày 8/2, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) Hà Thu Giang cho biết, kể từ năm 2017 tới hết năm 2019 (thời điểm trước khi xảy ra dịch COVID-19), tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tăng trưởng trên 20%/năm; cao hơn mức độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (từ 13-14%) và giữ tỷ trọng từ 18-19% tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế.

Năm 2020 và 2021, dưới tác động của dịch COVID-19, dư nợ tín dụng bất động sản vẫn có sự tăng trưởng tuy nhiên ở mức thấp hơn những năm trước (năm 2020 tăng 12,06%, năm 2021 tăng 15,37%).

Đến cuối năm 2022, tổng dư nợ tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản của các TCTD đạt khoảng 2,58 triệu tỷ đồng, tăng khoảng 24% so với 2021, là một trong những lĩnh vực tăng trưởng cao nhất, chiếm tỷ trọng 21,2% tổng dư nợ đối với nền kinh tế (cao nhất trong 5 năm qua), tỷ lệ nợ xấu là 1,81%. Trong đó, dư nợ tín dụng bất động sản tập trung vào mục đích tiêu dùng/tự sử dụng chiếm 68% và dư nợ đối với hoạt động kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng 32%.

Doanh số bảo lãnh nhà ở hình thành trong tương lai từ năm 2018 tới nay khoảng 110.000 tỷ đồng, bên cạnh đó, các TCTD cũng tích cực triển khai cho vay theo các chương trình về nhà ở.

Kết quả cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị quyết 02, tính đến thời điểm kết thúc giải ngân tái cấp vốn, doanh số giải ngân của Chương trình là 29.679 tỷ đồng cho hơn 53.000 cá nhân, hộ gia đình, đến cuối năm 2022, dư nợ cho vay của Chương trình là 6.276 tỷ đồng, nợ xấu chiếm 1,55%.

Ngân hàng chính sách xã hội (NHCSXH) cũng triển khai 5 chương trình cho vay liên quan tới bất động sản với tổng doanh số cho vay 21.602 tỷ đồng, tổng dư nợ 15.440 tỷ đồng chiếm 5,4% trên tổng dư nợ các chương trình cho vay của NHCSXH với trên 262.000 khách hàng đang vay vốn.

 

Bất động sản vẫn trong ‘top’ được vay vốn nhiều nhất

  Chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP có doanh số cho vay đạt 12.248 tỷ đồng. Ảnh BĐS. 

Trong đó, chương trình cho vay nhà ở xã hội theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP có doanh số cho vay đạt 12.248 tỷ đồng, với gần 24.000 căn nhà được xây dựng mới hoặc sửa chữa, cải tạo để ở, trên 7.000 căn hộ nhà ở xã hội được mua, thuê mua; dư nợ hiện nay là 10.573 tỷ đồng với trên 29.000 khách hàng còn dư nợ.

Kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD

Cũng tại Hội nghị, bà Hà Thu Giang đánh giá, thị trường bất động sản trong thời gian từ năm 2010 đến nay đã trải qua các giai đoạn từ tăng trưởng nóng, trầm lắng tới phục hồi và phát triển ổn định, NHNN đã linh hoạt sử dụng các công cụ, chính sách để điều hành tăng trưởng tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản, thích ứng với diễn biến thực tế của thị trường nhằm tháo gỡ khó khăn và góp phần duy trì sự phát triển ổn định của thị trường

Đại diện Vụ Tín dụng các ngành kinh tế khẳng định, điều hành tín dụng chung cũng như tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản đã bám sát chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ và mang tính nhất quán, xuyên suốt trong thời gian qua.

NHNN đã chỉ đạo các TCTD ưu tiên cấp tín dụng đối với các dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án nhà ở thương mại giá rẻ; các nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và người dân; đồng thời phải kiểm soát chặt chẽ rủi ro cấp tín dụng với mục đích đầu cơ để bảo đảm an toàn hệ thống…

Tỷ trọng tín dụng bất động sản trên tổng dư nợ tín dụng chung ổn định ở mức 19%-21%. Tín dụng tập trung chủ yếu vào nhu cầu tự sử dụng (chiếm khoảng 68% dư nợ tín dụng). Dư nợ tín dụng về nhà ở luôn chiếm tỷ trọng cao nhất (trên 60%).

Như vậy có thể thấy tín dụng bất động sản đã tập trung vào đáp ứng nhu cầu cải thiện chỗ ở của người dân, các chương trình tín dụng ưu đãi về nhà ở cũng đã được triển khai hiệu quả tại NHCSXH cũng như các ngân hàng thương mại, góp phần vào sự phát triển lành mạnh, an toàn của thị trường.

Về một số vấn đề cần lưu ý, theo bà Hà Thu Giang, đối với cơ cấu kỳ hạn dư nợ, nhu cầu tín dụng bất động sản thường là với thời hạn trung và dài hạn (hiện nay khoảng 94% dư nợ có thời gian từ 10-25 năm), trong khi đó nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn với mức lãi suất thay đổi theo thị trường (khoảng 80% là tiền gửi ngắn hạn). Do đó, nếu các TCTD không cân đối được kỳ hạn giữa huy động và cho vay phù hợp, có thể đối mặt với rủi ro thanh khoản.

Có hiện tượng tập trung cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản tại một số TCTD, với tốc độ tăng trưởng cao; một số TCTD cũng cấp tín dụng lớn với một số nhóm khách hàng, với khách hàng đầu tư dàn trải, có nhiều dự án dở dang.

Bên cạnh đó, lãnh đạo Vụ Tín dụng các ngành kinh tế nhận định, tín dụng bất động sản tập trung chủ yếu ở mục đích tự sử dụng và có sự tăng trưởng rất cao trong thời gian qua…. mặc dù mục đích này theo thống kê là hướng tới nhu cầu thực và được đánh giá rủi ro ít hơn mục đích kinh doanh bất động sản, song tiềm ẩn rủi ro khách hàng kê khai mục đích để phục vụ nhu cầu mua nhà để ở nhưng bản chất là để đầu tư kinh doanh.

Về chất lượng tín dụng, trong năm 2022, tỷ lệ nợ xấu đối với lĩnh vực bất động sản đang có chiều hướng nhích dần lên, đến nay là 1,81% (năm 2021 là 1,67%)…

Qua tổng hợp báo cáo của các ngân hàng; khó khăn, vướng mắc khi cấp tín dụng cho các dự án bất động sản tập trung ở một số vấn đề.

Trước tiên là hệ thống thủ tục pháp lý liên quan đến đất đai, quy hoạch, đầu tư
, đây là vướng mắc rất lớn tồn tại trong thời gian qua.

Về cơ cấu sản phẩm, thị trường đang có sự mất cân đối cung-cầu tại các phân khúc dư thừa nhà ở cao cấp, biệt thự trong khi nhà ở xã hội, nhà ở giá rẻ còn hạn chế; năng lực tài chính của doanh nghiệp còn hạn chế và phụ thuộc chủ yếu vào vốn vay, trái phiếu, huy động của người mua nhà.

Đặc biệt, hiện nay, chưa có nguồn vốn dài hạn có tính ổn định cho thị trường, việc huy động vốn qua kênh trái phiếu doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn và các doanh nghiệp bất động sản thuộc nhóm ngành phát hành trái phiếu lớn nhất.

 

Kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD

  Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) Hà Thu Giang. Ảnh NHNN.

Gần đây, một số doanh nghiệp bất động sản có những vi phạm trong phát hành trái phiếu gây mất lòng tin của nhà đầu tư, ảnh hưởng tới hoạt động huy động vốn trên thị trường trái phiếu. Ngoài việc phải xử lý các trái phiếu đáo hạn (giá trị trái phiếu doanh nghiệp đáo hạn của doanh nghiệp bất động sản 2 tháng cuối năm là 21,4.000 tỷ đồng, trong năm 2023 là 119,1.000 tỷ đồng), nhiều doanh nghiệp còn ứng tiền mua lại trái phiếu doanh nghiệp trước hạn; việc này sẽ gây áp lực lên dòng tiền, tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như dòng vốn tín dụng ngân hàng…

Định hướng trong thời gian tới, bà Hà Thu Giang cho biết, NHNN sẽ tiếp tục bám sát chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, điều hành tín dụng theo hướng tập trung đáp ứng nhu cầu vốn của nền kinh tế, đồng thời góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, điều hành tín dụng bất động sản phù hợp để bảo đảm an toàn hệ thống và hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển lành mạnh và bền vững.

NHNN tiếp tục chỉ đạo TCTD tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, đáp ứng vốn cho nền kinh tế trong đó có lĩnh vực bất động sản, nâng cao chất lượng tín dụng, khả năng tiếp cận vốn tín dụng của người dân, doanh nghiệp.

Tiếp tục rà soát, hoàn thiện khung khổ pháp lý về hoạt động ngân hàng, chủ động rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế chính sách, quy định pháp luật về hoạt động ngân hàng phù hợp với thực tiễn; tăng cường công tác, giám sát; phòng, chống, ngăn ngừa các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực ngân hàng; bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TCTD.

Phối hợp với các bộ, ngành để hoàn thiện các quy định pháp lý nhằm hỗ trợ thị trường bất động sản phát triển bền vững đồng thời kiểm soát rủi ro, bảo đảm an toàn hoạt động của TCTD.

]]>
Chính sách tiền tệ được kỳ vọng sẽ nới lỏng trong nửa cuối 2023 https://tindoanhnhan.com/chinh-sach-tien-te-duoc-ky-vong-se-noi-long-trong-nua-cuoi-2023/ Mon, 09 Jan 2023 11:05:22 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/chinh-sach-tien-te-duoc-ky-vong-se-noi-long-trong-nua-cuoi-2023/

Theo các báo cáo phân tích gần đây của một số công ty chứng khoán, nhóm chuyên gia nhận định chính sách tiền tệ được kỳ vọng sẽ nới lỏng trong nửa cuối năm 2023, sau khi tình hình lạm phát được kiểm soát ở nửa đầu năm.

Tín dụng bật tăng mạnh trong 10 ngày cuối 2022

TheoBản tin thị trường tiền tệ, trái phiếu tuần 26/12/2022 – 30/12/2022 được SSI Research công bố ngày 3/1, biến động trên thị trường tiền tệ trong tuần giao dịch cuối cùng của năm không quá nhiều bất ngờ, trong bối cảnh thanh khoản hệ thống vẫn tương đối dư thừa. Xuyên suốt trong những ngày đầu tuần, mặt bằng lãi suất liên ngân hàng kỳ hạn qua đêm tiếp tục xu hướng giảm, với mức thấp nhất là 2,8% vào phiên giao dịch ngày 22/12/2022. Trạng thái này đã được đảo ngược trong ngày giao dịch 30/12/2022 và kết tuần, lãi suất liên ngân hàng bật tăng về mức 5% (tăng 150 điểm cơ bản).

Trên kênh hoạt động thị trường mở, NHNN tiếp tục linh hoạt kết hợp nghiệp vụ mua kỳ hạn và bán tín phiếu. Trong đó, trên kênh mua kỳ hạn, NHNN chào thầu 49.000 tỷ đồng (tăng gấp đôi so với tuần trước) ở kỳ hạn 7 ngày và lãi suất là 6,0%. Tổng khối lượng trúng thầu đạt 41.900 tỷ đồng trúng thầu (riêng phiên ngày 30/12/2022 là 17.300 tỷ).

Trên kênh tín phiếu, NHNN chào thầu với kỳ hạn 7 ngày ở hầu hết các phiên, với tổng khối lượng trúng thầu đạt 124.400 tỷ đồng, lãi suất dao động từ 5,2% đến 6,0%. Kết tuần cuối năm 2022, NHNN hút ròng 37.200 tỷ đồng thông qua nghiệp vụ thị trường mở, khối lượng lưu hành trên kênh mua kỳ hạn là 62.900 tỷ và kênh tín phiếu là 124.400 tỷ đồng.

 

Tình hình tăng trưởng tín dụng và huy động vốn theo tháng (Ảnh: SSI)

Bên cạnh đó, theo SSI Research, trong hội nghị tổng kết năm 2022 của Chính phủ, NHNN đã công bố tăng trưởng tín dụng trong năm 2022 ước đạt 14,5% so với cuối năm 2021 (năm 2021: 13,6%). Như vậy, chỉ trong 10 ngày cuối cùng của tháng 12/2022, tín dụng đã bật tăng khoảng hơn 1,5 điểm phần trăm, tuy nhiên mức tăng trưởng này vẫn thấp hơn hạn mức mà NHNN cho phép trong năm 2022 là 16%.

Bức tranh tăng trưởng tín dụng trong năm 2022 có thể được chia rõ rệt thành 2 màu sắc, tăng mạnh trong nửa đầu năm và giảm nhiệt trong nửa cuối năm trong bối cảnh các điều kiện tài chính thắt chặt hơn.

Nhìn chung, SSI Research đánh giá, chính sách tiền tệ xuyên suốt năm 2022 là linh hoạt với xu hướng thắt chặt, tùy theo diễn biến tình hình để xác định trọng tâm, trọng điểm ưu tiên trong từng thời điểm.

Thực tế, từ tháng 10/2022 khi sự cố SCB xảy ra tác động mạnh tới thanh khoản hệ thống và thị trường, NHNN đã ưu tiên cao nhất và tập trung thực hiện các giải pháp đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường ngoại hối.

Năm 2023: Kiểm soát lạm phát là tiền đề để nới lỏng chính sách tiền tệ 

Theo báo cáo Vĩ mô và thị trường 2023 được Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) công bố ngày 22/12/2022, kiểm soát được lạm phát trong 6 tháng đầu năm là cơ sở để kỳ vọng chính sách tiền tệ nới lỏng hơn trong nửa cuối năm 2023. 

Trước đó, trong năm 2022, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã tăng lãi suất điều hành 2 lần (trong tháng 9 và tháng 10) với mức tăng khá lớn lên tới 200 điểm cơ bản.

Lãi suất tái cấp vốn được nâng từ 4% lên 6% và lãi suất tái chiết khấu từ 2,5% lên 4,5%. Trần lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng và lãi suất cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN được nâng từ 5% lên 7%.

Trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng được nâng từ 4% lên 6% trước đó. Kể từ đầu năm 2022, mức tăng lãi suất điều hành của Việt Nam lớn hơn đáng kể so với các nước trong khu vực.Về tình hình lạm phát, lạm phát năm 2022 tương đối thấp ở mức 3,2%. Tuy nhiên, Việt Nam tiếp tục chứng kiến áp lực lạm phát tăng lên. Tháng 12/2022 là tháng thứ 3 liên tiếp lạm phát vượt mức trần 4% của NHNN (lạm phát trong 3 tháng cuối năm 2022 của Việt Nam tăng lần lượt 4,47%; 4,81% và 4,99% so với cùng kỳ).

Về áp lực giá năm 2023, theo Báo cáo Chiến lược Đầu tư năm 2023 của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) (công bố 30/12/2022), lạm phát các tháng đầu năm được dự báo có thể vẫn ở mức cao và giảm dần sau đó. Đồng thời, lạm phát không phải là vấn đề đáng quan ngại trong năm 2023, và triển vọng lạm phát xoay quanh hai yếu tố: giá dầu và chính sách.

Liên quan đến giá dầu, vào đầu tháng 12/2022, giá dầu thế giới đã giảm rất nhanh trước triển vọng u ám của tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Mặc dù vấn đề nguồn cung vẫn khó đoán nhưng xác suất dầu trở về mức đỉnh của năm 2022 là khá thấp.

Liên quan đến vấn đề chính sách, VDSC chỉ ra có 4 điểm đáng chú ý, bao gồm: Mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu năm 2023 sẽ giữ nguyên như năm 2022; giá điện có thể được điều chỉnh tăng từ 5-10% trong 2023; chính sách tăng tiền lương cơ bản; Chính phủ nới lỏng chính sách tiền tệ và mục tiêu lạm phát.

VDSC cho biết, trong bối cảnh cầu tiêu dùng trong nước không khả quan, tác động của cung tiền tăng thấp kéo dài từ năm 2022 sang 2023 thì lạm phát vẫn có thể kiểm soát được ở mức 4,2%.

Còn theo báo cáo ngày 3/1/2023 của SSI Research, mục tiêu điều hành trong năm 2023 cũng không có nhiều khác biệt với 2022, là sẽ tùy vào trạng thái thực tế của thị trường để có những giải pháp phù hợp. Tuy nhiên, với mặt bằng lãi suất cuối 2022 ở mức tiệm cận cao (tương đương giai đoạn 2011-2012) và tăng trưởng kinh tế trong năm tới sẽ gặp nhiều khó khăn hơn do các yếu tố từ bên ngoài, chính sách tiền
tệ được kỳ vọng sẽ có xu hướng nới lỏng hơn và kết hợp với chính sách tài khóa mở rộng nhằm thúc đẩy tăng trưởng trong năm nay.

Đồng quan điểm với SSI Research, báo cáo Vietnam At A Glance – Tăng trưởng 8% nhưng cần thận trọng của HSBC ngày 5/1/2023 cũng dự báo xu hướng thắt chặt các chính sách tiền tệ của NHNN sẽ chậm lại trong năm 2023, khi FED giảm tốc độ tăng lãi suất và biến động thị trường ngoại tệ được xoa dịu. Tuy nhiên, khi FED chưa ngừng tăng lãi suất, chu kỳ tăng lãi suất trong nước sẽ còn tiếp tục.

HSBC dự báo NHNN sẽ nâng lãi suất tái cấp vốn 0,5 điểm % trong quý I và II, đồng thời nâng lãi suất tái cấp vốn lên 7%/năm vào giữa 2023. 

]]>
VNDIRECT: Tăng trưởng lợi nhuận ngành ngân hàng có thể chững lại trong nửa đầu 2023 https://tindoanhnhan.com/vndirect-tang-truong-loi-nhuan-nganh-ngan-hang-co-the-chung-lai-trong-nua-dau-2023/ Sat, 07 Jan 2023 06:51:24 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/vndirect-tang-truong-loi-nhuan-nganh-ngan-hang-co-the-chung-lai-trong-nua-dau-2023/

Mới đây, CTCP Chứng khoán VNDIRECT đã công bố báo cáo phân tích và dự phóng ngành ngân hàng trong năm 2023. Theo đó, các ngân hàng sẽ ưu tiên cân bằng chất lượng tài sản và tăng trưởng lợi nhuận. Tuy nhiên, tăng trưởng lợi nhuận của ngành trong 2023 – 2024 sẽ chậm lại và đạt 10 – 11% so với 2022.

Theo báo cáo ngành ngân hàng được VNDIRECT công bố ngày 5/1, nhóm phân tích nhận định “sóng gió” vẫn sẽ tiếp diễn trong năm 2023 do thị trường bất động sản (BĐS) tiếp tục trầm lắng. Chịu tác động như vậy, tình hình ngành ngân hàng được dự báo có sự chững lại nửa đầu 2023, nhưng sẽ trở nên khả quan hơn vào nửa cuối năm.

Tăng trưởng tín dụng hệ thống sẽ đạt khoảng 12% trong 2023

Trong 2022, tín dụng hệ thống đã tăng 14,5%, cao hơn mức 13,6% của năm 2021. Tuy nhiên, tín dụng chỉ tăng thêm khoảng 5% ở nửa cuối năm, mức tăng chậm lại rõ rệt do ổn định kinh tế vĩ mô vẫn đang là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ trong năm 2022 và giai đoạn 2023 – 2024.

Trong 2023, VNDIRECT dự phóng tăng trưởng tín dụng sẽ chậm lại và đạt khoảng 12% do thị trường BĐS kém khả quan, tăng trưởng xuất khẩu giảm tốc và lãi suất cao.

Theo đó, các chủ đầu tư sẽ gặp khó khăn trong việc huy động vốn khi thị trường TPDN trầm lắng và lãi suất tăng cao làm ảnh hưởng lên nhu cầu vay mua nhà. Xuất khẩu, một trong những trụ cột tăng trưởng chính của Việt Nam, sẽ giảm tốc và đạt 9,5% trong năm 2023, thấp hơn so với mức 14% của 2022. Hơn nữa, các doanh nghiệp sẽ tạm thời ngưng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong bối cảnh lãi suất tăng cao và nhu cầu tiêu dùng suy yếu.

Tăng trưởng tín dụng hệ thống sẽ đạt khoảng 12% trong 2023

Tình hình tăng trưởng tín dụng toàn hệ thống (Nguồn: VNDIRECT)

Ngoài ra, lạm phát dự kiến vẫn sẽ ở mức cao. Lạm phát toàn cầu đã có dấu hiệu đạt đỉnh, tuy nhiên, lạm phát tại Việt Nam được dự báo vẫn có thể duy trì mức cao do mức tăng tiền lương 20,8% có hiệu lực từ tháng 7/2023 và sự tăng giá ở các dịch vụ như y tế, vận tải công cộng,…

Căng thẳng thanh khoản cũng là một nguyên nhân làm chậm lại đà tăng trưởng tín dụng. Vào cuối quý III/2022, các ngân hàng đều ghi nhận chỉ số LDR tăng mạnh, một số ngân hàng đã gần chạm ngưỡng quy định là 85%.

Trước bối cảnh hiện nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ ưu tiên các Ngân hàng Thương mại (NHTM) có cơ cấu tín dụng lành mạnh (tỷ trọng cho vay các phân khúc rủi ro như bất động sản và trái phiếu doanh nghiệp thấp và/hoặc tỷ trọng cho vay bán lẻ cao), tham gia cơ cấu lại các tổ chức tài chính yếu kém, chất lượng tài sản lành mạnh, tỷ lệ an toàn vốn cao và quản trị rủi ro tốt.

Tăng trưởng tín dụng hệ thống sẽ đạt khoảng 12% trong 2023

Dự phóng tăng trưởng tín dụng và thị phần tín dụng tăng/giảm của các ngân hàng (Nguồn: VNDIRECT)

Nhiều yếu tố khiến tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành có nguy cơ chững lại

Biến động của thị trường TPDN và BĐS làm tăng áp lực cho các ngân hàng

Kể từ quý II/2022, Chính phủ đã giám sát chặt chẽ thị trường TPDN. Nghị định 65 nhằm thắt chặt hơn các quy định về phát hành TPDN đã được ban hành. Theo VNDirect, những chỉ thị này sẽ khuyến khích hơn việc phát hành ra công chúng, cải thiện chất lượng của các tổ chức phát hành và cải thiện tính bền vững của thị trường TPDN.

Tuy nhiên, trong ngắn hạn, thị trường đã chứng kiến hàng loạt vụ điều tra, trong đó có nhiều trường hợp phát hành sai mục đích, sai quy định và một số lãnh đạo cấp cao bị bắt giữ. Điều này đã làm mất lòng tin của nhà đầu tư đối với các tổ chức phát hành và dẫn đến sự “tẩy chay” trên thị trường TPDN. Hơn nữa, các ngân hàng có liên quan nhiều đến TPDN cũng chịu ảnh hưởng tiêu cực khi rủi ro tín dụng gia tăng và thu nhập từ phí (hoạt động bảo lãnh phát hành và phân phối trái phiếu) giảm. 

Ở một diễn biến khác, mặc dù không có quy định hay văn bản chính thức nào liên quan đến việc NHNN thắt chặt dòng tín dụng vào thị trường BĐS, nhưng việc cho vay BĐS đã chậm lại với mục đích kìm hãm đà tăng nóng của thị trường này kể từ năm 2022. Theo Thông tư 08/2020, tỷ lệ tối đa lấy vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn sẽ giảm từ mức 37% xuống 34% kể từ ngày 1/10/2022.

Do cho vay BĐS thường là các khoản vay trung và dài hạn, các ngân hàng sẽ phải chú ý nhiều hơn đến việc quản lý rủi ro thanh khoản và sẽ không để dư nợ cho vay BĐS tăng lên quá mạnh trong danh mục tín dụng của mình. Ngoài ra, BĐS có tỷ lệ rủi ro cho vay rất cao là 200% so với các lĩnh vực khác, nên các ngân hàng hiện đang hạn chế cho vay BĐS để bảo đảm tính an toàn vốn và chất lượng tài sản của mình.

Khi các cuộc kiểm tra và đánh giá rủi ro đối với mỗi ngân hàng sẽ được thực hiện gắt gao hơn, các ngân hàng có tỷ trọng cho vay BĐS và nắm giữ TPDN trong danh mục tín dụng thấp sẽ gặp ít áp lực hơn trong việc thúc đẩy tăng trưởng cho vay trong giai đoạn 2023 – 2024.

Biến động của thị trường TPDN và BĐS làm tăng áp lực cho các ngân hàng

Tỷ trọng cho vay BĐS và TPDN trong cơ cấu cho vay các ngân hàng (Nguồn: VNDIRECT)

Thực tế, về vấn đề thanh khoản hệ thống, từ đầu 2022, NHNN đã thắt chặt cung tiền từ đầu năm 2022, đồng thời hạn chế tăng trưởng tín dụng tại các NHTM nhằm kiểm soát lạm phát. Trong 10 tháng đầu năm 2022, cung tiền M2 chỉ tăng 7% so với cùng kỳ, thấp nhất trong 10 năm qua. Theo đó, tăng trưởng huy động của hệ thống tăng thấp hơn đáng kể so với tăng trưởng tín dụng, nới rộng khoảng cách huy động – tín dụng kể từ đầu năm 2022. Nhu cầu huy động vốn tăng mạnh khi NHNN nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng cho một số NHTM kể từ tháng 9/2022, kéo theo mặt bằng lãi suất huy động tăng nhanh.

Bên cạnh đó, Sự kiện Chủ tịch Tập đoàn Vạn Thịnh Phát bị bắt do sai phạm trong phát hành TPDN vào cuối tháng 9/2022 đã ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động của Ngân Hàng TMCP Sài Gòn (SCB) – ngân hàng lớn thứ 5 tại Việt Nam về quy mô tổng tài sản. Dù sự kiện này đã lắng xuống sau vài ngày, nhưng nó đã gây áp lực lên thanh khoản hệ thống do các NHTM đã chuyển sang trạng thái phòng thủ và củng cố lại khả năng quản trị rủi ro thanh khoản của mình.

Biến động của thị trường TPDN và BĐS làm tăng áp lực cho các ngân hàng

Khả năng đáp ứng rủi ro thanh khoản của các ngân hàng, dựa trên trung bình số liệu cuối 2021 và cuối quý III/2022 (Nguồn: VNDIRECT)

Nhóm phân tích VNDIRECT dự báo sang năm 2023, ngành ngân hàng tiếp tục đối diện với một vấn đề nghiêm trọng khác liên quan đến thanh khoản, là việc các doanh nghiệp Việt Nam đang gặp khó khăn về dòng tiền, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Cụ thể, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với chi phí lãi vay tăng cao (do USD tăng giá và lãi suất tiền đồng tăng cao), gây ảnh hưởng lên khả năng trả nợ của các doanh nghiệp. Mặt khác, việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp đang gặp nhiều khó khăn, khi kênh tín dụng ngân hàng vẫn bị hạn chế trong khi thị trường TPDN gần như đã đóng băng. Những khó khăn trong việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp và khả năng trả nợ suy giảm sẽ tác động xấu đến chất lượng tài sản của ngân hàng trong năm 2023.

Nhìn chung, áp lực tăng trích lập dự phòng sẽ quay trở lại và dẫn tới việc chi phí dự phòng có thể tăng trong 2023 – 2024. Theo VNDIRECT, những ngân hàng với chất lượng tài sản ổn định sẽ ở một vị thế tốt để đương đầu với rủi ro nợ xấu tăng cao.

NIM sẽ thu hẹp do áp lực chi phí vốn tăng cao

Một dự báo quan trọng khác trong báo cáo của VNDIRECT, NHNN sẽ tiếp tục chính sách tiền tệ thắt chặt trong giai đoạn 2023 – 2024 trong bối cảnh kinh tế vĩ mô vẫn nhiều biến động, bao gồm thị trường BĐS và TPDN đang gặp nhiều khó khăn, chính sách “diều hâu” của FED gây áp lực lên tỷ giá và lãi suất và áp lực lạm phát. 

Cùng đó, ngành ngân hàng sẽ phải đối mặt với chi phí vốn tăng trong năm tới. Lãi suất liên ngân hàng đã tăng mạnh trong những tháng gần đây do NHNN hút tiền đồng từ hệ thống để cân đối tỷ giá, doanh nghiệp mua lại trái phiếu trước hạn và sự kiện xoay quanh SCB. Tuy đã hạ nhiệt, VNDIRECT dự báo lãi suất liên ngân hàng sẽ tiếp tục trong khoảng 5 – 6% cho kỳ hạn qua đêm. 

Liên quan đến lãi suất huy động, sau khi NHNN tăng lãi suất điều hành 200 điểm cơ bản, các NHTM đã nhanh chóng nâng mạnh lãi suất huy động ở mọi kỳ hạn. Sang 2023, khi chi phí vốn của ngành ngân hàng sẽ tăng mạnh, NIM của các ngân hàng cũng sẽ thu hẹp. Theo đó, lợi suất tài sản (asset yield) khó có thể tăng đủ mạnh để bù đắp do lãi suất cho vay khó tăng mạnh khi Chính phủ đang kêu gọi giảm lãi suất để chia sẻ gánh nặng cùng khách hàng.

VNDIRECT nhận định rằng những ngân hàng có tỷ trọng cho vay bán lẻ và tỷ lệ CASA cao sẽ có khả năng chống chọi với việc NIM bị thu hẹp. Hiện VIB và ACB là hai ngân hàng có tỷ trọng bán lẻ cao nhất, lần lượt ở mức 87% và 64%. Vietinbank (CTG), VPBank (VPB), TPBank (TPB) và MB (MBB) cũng là những cái tên đáng chú ý khi đã thành công trong việc tăng tỷ trọng cho vay bán lẻ trong năm 2022. Trên phương diện CASA, Techcombank (TCB), MBB và Vietcombank (VCB) là những ngân hàng có tỷ lệ CASA tốt nhất hệ thống. Vietcombank đặc biệt gây ấn tượng khi đã là một trong số ít ngân hàng cải thiện được tỷ lệ CASA từ đầu năm 2022.

Thị trường điều chỉnh mạnh mở ra cơ hội đầu tư dài hạn hấp dẫn

Nhìn chung, VNDIRECT nhận định sức khỏe nội tại các ngân hàng đã được cải thiện hơn nhiều so với trước đây, và ngành ngân hàng vẫn được hưởng lợi nhiều nhất từ câu chuyện tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong dài hạn. Do đó, định giá của ngành ở mức thấp lịch sử là 1,1 lần P/B năm 2023 (tương đương -2 độ lệch chuẩn trung bình 3 năm) đang tạo ra một cơ hội đầu tư dài hạn hết sức hấp dẫn.

Từ những yếu tố này, VNDIRECT giữ lập trường thận trọng đối với triển vọng ngành ngân hàng trong nửa đầu năm 2023 do căng thẳng thanh khoản và rủi ro TPDN vẫn hiện hữu. Khoảng 46 nghìn tỷ đồng TPDN đáo hạn vào nửa đầu năm 2023 sẽ là một phép thử lớn cho hệ thống tài chính. Trong giai đoạn biến động này, VNDIRECT ưu tiên các ngân hàng có khả năng phòng thủ trước những biến động (quản trị rủi ro tốt và cho vay BĐS hạn chế), điển hình như VCB và ACB.

Sang nửa cuối năm 2023, kết quả kinh doanh của ngành ngân hàng được kỳ vọng sẽ ổn định hơn khi áp lực lãi suất và tỷ giá bắt đầu giả
m bớt, cùng lúc với việc thanh khoản được cải thiện nhờ nhà nước đẩy mạnh các gói đầu tư công. Một khi triển vọng trở nên tươi sáng hơn, VNDIRECT sẽ ưu tiên những ngân hàng có định giá hấp dẫn, bộ đệm vốn vững chắc và có tỷ trọng cho vay BĐS cũng như TPDN lớn trong danh mục tín dụng, điển hình như TCB và VPB.

Thị trường điều chỉnh mạnh mở ra cơ hội đầu tư dài hạn hấp dẫn

So sánh các doanh nghiệp ngành ngân hàng (Nguồn: VNDIRECT)

Trong giai đoạn nhiều biến động như hiện tại, nhà đầu tư sẽ có phần “dè chừng” đối với những cổ phiếu như TCB và VPB. Tuy vậy, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, BĐS và TPDN đều là những lĩnh vực còn nhiều tiềm năng và sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt trong những năm tới, dẫn đến những ngân hàng trên sẽ được hưởng lợi.

Thị trường điều chỉnh mạnh mở ra cơ hội đầu tư dài hạn hấp dẫn

Tóm tắt dự phóng về các ngân hàng năm 2023 (Nguồn: VNDIRECT)

]]>
Tăng trưởng tín dụng đạt khoảng 13% https://tindoanhnhan.com/tang-truong-tin-dung-dat-khoang-13/ Tue, 27 Dec 2022 05:16:18 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/tang-truong-tin-dung-dat-khoang-13/

Sáng 27/12, phát biểu tại buổi họp báo về kết quả hoạt động năm 2022, triển khai nhiệm vụ ngành ngân hàng năm 2023, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đào Minh Tú cho biết, tăng trưởng tín dụng tính đến ngày hôm nay đạt khoảng 13%.

Tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 21/12, tín dụng toàn nền kinh tế đạt trên 11,78 triệu tỷ đồng, tăng 12,87% so với cuối năm 2021, tăng 13,96% so với cùng kỳ năm 2021.

Bà Hà Thu Giang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (Ngân hàng Nhà nước) cho biết, cơ cấu tín dụng tiếp tục tập trung vốn cho lĩnh vực sản xuất kinh doanh, tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro được kiểm soát. Dư nợ tín dụng đối với 23 chương trình tín dụng chính sách của Ngân hàng Chính sách xã hội đến ngày 30/11 đạt khoảng 279.732 tỷ đồng, tăng 12,81% so với năm 2021 với hơn 6,4 triệu khách hàng còn dư nợ.

Theo bà Hà Thu Giang, căn cứ định hướng tăng trưởng tín dụng năm 2022 khoảng 14%, có điều chỉnh phù hợp với diễn biến, tình hình thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện điều hành tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh nhưng không chủ quan với rủi ro lạm phát; chỉ đạo tổ chức tín dụng tăng trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả, hướng tín dụng vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ.

Cùng với đó, Ngân hàng Nhà nước kiểm soát chặt tín dụng đối với lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt là hoạt động đầu tư trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản nhất là kiểm soát mức độ tập trung tín dụng vào một số khách hàng/nhóm khách hàng lớn, các dự án có quy mô lớn, phân khúc cao cấp…; tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân tiếp cận tín dụng ngân hàng.

Trong điều hành lãi suất, 8 tháng của năm 2022, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất điều hành trong bối cảnh lãi suất thế giới tăng nhanh, tính từ đầu năm 2022 đến nay, có tổng cộng 340 lượt tăng lãi suất trên toàn cầu và áp lực lạm phát trong nước gia tăng, tạo điều kiện cho tổ chức tín dụng tiếp cận nguồn vốn từ Ngân hàng Nhà nước với chi phí thấp.

Tuy nhiên, từ tháng 9/2022, lạm phát toàn cầu vẫn ở mức cao, Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tục điều chỉnh nhanh, mạnh lãi suất điều hành và dự báo còn tiếp tục tăng trong thời gian tới, đồng USD lên giá mạnh, gia tăng áp lực lên mặt bằng lãi suất và tỷ giá trong nước, tạo sức ép lên lạm phát.

Để tiếp tục triển khai đồng bộ các biện pháp, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ, đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng các mức lãi suất điều hành hai lần. Cụ thể, các mức lãi suất điều hành với tổng mức tăng 2%/năm và lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND  kỳ hạn dưới 6 tháng tại tổ chức tín dụng với tổng mức tăng 0,8-2%/năm (vào các ngày 23/9 và 25/10); tăng 1%/năm lãi suất cho vay tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên (vào ngày 25/10).

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, đây là giải pháp kịp thời, phù hợp với xu hướng chung trên toàn thế giới để ưu tiên kiểm soát lạm phát, giữ ổn định thị trường ngoại tệ, tạo dư địa thích ứng mới với các biến động trên thị trường, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô đảm bảo an toàn hệ thống. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo tổ chức tín dụng tiết giảm chi phí hoạt động, thủ tục hành chính, các khoản chi không cần thiết để có dư địa phấn đấu giảm lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ và đồng hành cùng doanh nghiệp, người dân vượt qua khó khăn.

Thanh toán không dùng tiền mặt trong 11 tháng đầu năm 2022 đạt mức tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm 2021. Giao dịch thanh toán không tiền mặt tăng 85,6% về số lượng và 31,39% về giá trị; qua kênh Internet tăng tương ứng 89,36% và 40,55%; qua kênh điện thoại di động tăng tương ứng 116,1% và 92,3%; qua phương thức QR code tăng tương ứng 182,5% và 210,6%; giao dịch qua POS tăng tương ứng 53,57% và 48,78%; giao dịch qua ATM tăng tương ứng 13,28% và 14,04%.

Điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý

Ông Đào Minh Tú cho biết, năm 2023, kinh tế thế giới dự kiến sẽ tiếp tục phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Kinh tế trong nước thời gian tới đối mặt với thuận lợi và thách thức đan xen.

Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tăng trưởng tín dụng hợp lý phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô, góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ phục hồi và tăng trưởng kinh tế; tập trung vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, nhất là các lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát tín dụng vào lĩnh vực rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng; đẩy mạnh triển khai các nhiệm vụ của ngành ngân hàng tại Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng triển khai quyết liệt Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025”. Trong số đó, đẩy mạnh xử lý nợ xấu; tăng cường thanh tra và nâng cao hiệu quả giám sát an toàn vĩ mô và vi mô; nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý đối với các tô chức tín dụng…

Lãnh đao Ngân hàng Nhà nước cho biết sẽ tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung khuôn khổ pháp lý, cơ chế, chính sách về tiền tệ, hoạt động ngân hàng, bảo đảm thị trường tiền tệ, ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh, thông suốt, bền vững.

Ngoài ra, tiếp tục triển khai các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số hoạt động ngân hàng để áp dụng các mô hình kinh doanh mới và cung ứng các sản phẩm, dịch vụ công nghệ tiện ích, an toàn đáp ứng nhu cầu của người dân, doanh nghiệp; đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống công nghệ thông tin trong ngành ngân hàng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng…/.

]]>