#TS Cấn Văn Lực – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com Trang tin tức doanh nhân Việt Nam Sun, 08 Dec 2024 20:20:37 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/tindoanhnhan/2025/08/d.svg #TS Cấn Văn Lực – Tindoanhnhan.com https://tindoanhnhan.com 32 32 Kinh tế Việt Nam 2023: ‘Cơn gió ngược’ đồng hành cùng ‘cơn gió xuôi’ https://tindoanhnhan.com/kinh-te-viet-nam-2023-con-gio-nguoc-dong-hanh-cung-con-gio-xuoi/ Thu, 12 Jan 2023 01:12:39 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/kinh-te-viet-nam-2023-con-gio-nguoc-dong-hanh-cung-con-gio-xuoi/

Phát biểu tại Diễn đàn thường niên Kịch bản Kinh tế Việt Nam 2023 được tổ chức sáng 11/1 với chủ đề “Tối ưu nguồn lực, vượt qua thách thức”, các chuyên gia khuyến nghị, năm 2023, doanh nghiệp cần chủ động tiếp cận chương trình phục hồi kinh tế, nhất là các gói hỗ trợ tài khóa để gỡ bỏ nốt khó khăn.

 

Năm 2022 đã khép lại với những thành tựu đạt được ấn tượng của nền kinh tế, thể hiện qua con số tăng trưởng GDP đạt 8,02% trong bối cảnh cả nước chuyển hướng sang phòng chống dịch linh hoạt kết hợp với các yếu tố kinh tế vĩ mô thuận lời, từ tiêu thụ, xuất khẩu cho đến giải ngân đầu tư.

Các chuyên gia nhận định công cuộc phục hồi kinh tế – xã hội của Việt Nam sau khủng hoảng của đại dịch Covid-19 đã có những bước tiến nhanh và mạnh mẽ, cho thấy rõ những nỗ lực vượt bậc của các cấp, các ngành và đặc biệt của cộng đồng doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp FDI.  

Tuy nhiên, trước những bối cảnh khó lường của thế giới cũng như các xu hướng chuyển dịch mới hiện hữu và tiềm ẩn nhiều rủi ro và thách thức đối với nền kinh tế và phát sinh các vùng nhiễu động gây khó khăn kéo dài cho hoạt động của doanh nghiệp. Đó là những vấn đề được bàn thảo sôi nổi tại Diễn đàn thường niên Kịch bản Kinh tế Việt Nam 2023 diễn ra ngày 11/1. 

TS. Nguyễn Minh Cường:  “Cơn gió ngược” đồng hành cùng “cơn gió xuôi” trong nền kinh tế năm 2023

Cụ thể, theo ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng ADB tại Việt Nam, trong 2022, các nền kinh tế trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APAC) đã chuyển đổi sang các biện pháp phòng chống dịch linh hoạt, do đó đã tạo ra động lực cho sự phục hồi kinh tế. Điều này đã dẫn đến sự phục hồi rất nhanh về nhu cầu tiêu dùng, trong đó có Việt Nam.

Đồng thời, lạm phát trong khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, đã được kiểm soát tốt hơn do đứt gãy chuỗi cung ứng không mạnh như các khu vực khác trên thế giới. Theo ADB, lạm phát trên toàn cầu đã đạt đến đỉnh và có xu hướng sẽ đi xuống trong năm 2023, dù rủi ro lạm phát vẫn còn. 

Trong bối cảnh thị trường tài chính thế giới siết chặt lại, phần lớn các đồng tiền trong khu vực có xu hướng mất giá so với đồng USD, trung bình mất giá là 10%, trong đó có đồng VND. Trong năm 2021, các ngân hàng Trung ương trong châu Á đã tăng lãi suất 23 lần, với mức độ tăng trung bình là khoảng 30 điểm cơ bản. Nhưng đến năm 2022, các ngân hàng Trung ương trong châu Á đã tăng lãi suất khoảng 68 lần, với mức tăng trung bình là khoảng 63 điểm cơ bản.

Về triển vọng năm 2023, ông Cường cho rằng kinh tế khu vực châu Á vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng khá ổn định và khả quan, đặc biệt khu vực ASEAN.

Riêng với Việt Nam, những “cơn gió ngược” – thách thức sẽ tiếp tục xuất hiện trong năm 2023, nhưng đồng thời nhiều “cơn gió xuôi” – cơ hội cũng sẽ xuất hiện. Một trong đó là sự mở cửa của Trung Quốc.  

TS. Cấn Văn Lực: Doanh nghiệp bước vào năm 2023 nhiều thách thức

Còn theo TS. Cấn Văn Lực – chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV, bước vào năm 2023, kinh tế thế giới phải đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức tồn tại từ năm 2022 liên quan đến “4 tăng và 2 giảm”.

Cụ thể, 4 tăng là bất định tăng (chiến tranh, dịch bệnh…); lạm phát và lãi suất tăng và còn ở mức cao; rủi ro tài chính tăng (lãi suất tăng, tỷ giá tăng, rủi ro nợ tăng..); rủi ro an ninh năng lượng, an ninh lương thực tăng, an ninh chuỗi cung ứng tăng.

2 giảm là lợi nhuận biên của doanh nghiệp giảm; đà phục hồi kinh tế giảm (tăng 3% năm 2022) và suy thoái nhẹ, cục bộ năm 2023.

Năm 2023, kinh tế thế giới cũng sẽ chịu tác động từ xu hướng dịch chuyển nhanh của kinh tế số, tài chính xanh, chuyển đổi năng lượng, bất động sản xanh…

Ông Lực cho rằng, nhìn lại năm 2022, kinh tế Việt Nam thuộc top tăng trưởng mạnh của khu vực và thế giới; lượng kiều hối cũng nhiều nhất khu vực Đông Á – Thái Bình Dương. 

“Lý do cho tăng trưởng kinh tế cao của Việt Nam 2022 là sự mở cửa trở lại khá sớm, các động lực tăng trưởng phục hồi khá đồng đều so với nền thấp của năm trước. Tuy nhiên, các động lực tăng trưởng này có được duy trì trong năm 2023 hay không là câu hỏi cần phải trả lời”, ông Lực cho biết.

Đánh giá về thời cơ cho kinh tế Việt Nam năm 2023, theo ông Lực, bước vào năm 2023, Trung Quốc mở cửa trở lại; GDP toàn cầu dự báo tăng thêm 1 điểm %. Cùng đó, Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội 2022 – 2023 và giải ngân đầu tư công dự kiến được đẩy nhanh hơn.

Cùng với đó là các động lực từ nền tảng vĩ mô và kinh nghiệm phòng chống dịch, quản trị rủi ro được tích lũy tốt lên; rủi ro tài khóa ở mức trung bình tạo dư địa cho năm 2023. Lạm phát tăng nhưng cơ bản được kiểm soát, áp lực tăng lãi suất, áp lực tỷ giá và rủi ro nợ đang giảm dần. Kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn được đẩy mạnh.

Năm 2023, quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, hoàn thiện thể chế (sửa đổi Luật Đất đai, Luật nhà ở, luật liên quan đến kinh doanh bất động sản, tài chính tín dụng tại Việt Nam sẽ được thúc đẩy. Kinh tế internet tăng khá nhanh sẽ tạo đà cho quá trình phục hồi và phát triển kinh tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội, trong năm 2023, kinh tế Việt Nam cũng chịu tác động từ rủi ro của nền kinh tế thế giới và khu vực.

Đó là 3 cú sốc/rủi ro chính tác động đến các nền kinh tế châu Á, trong đó có Việt Nam, mà TS. Cấn Văn Lực chỉ ra bao gồm: Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng chậm lại làm giảm tổng cầu, khiến tăng trưởng toàn cầu giảm 1 điểm % năm 2023; Giảm tổng cầu khiến tăng trưởng tại Mỹ và châu Âu giảm 2 điểm %; Điều kiện thị trường tài chính khó khăn hơn khiến rủi ro và lợi suất tăng..

Tại Việt Nam, xuất khẩu và sản xuất công nghiệp đang có xu hướng giảm đà tăng trưởng. Chỉ số quản lý thu mua (PMI) của hoạt động sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh, lạm phát (CPI) còn gia tăng, giải ngân đầu tư công vẫn là thách thức (mới chỉ đạt 85% kế hoạch năm), thanh khoản thị trường ngân hàng còn eo hẹp. Có thể nói, doanh nghiệp đang đứng trước nhiều khó khăn khi bước vào năm 2023.

Để kiên định giải pháp ổ
n định kinh tế vĩ mô, tối ưu hóa nguồn lực, các bộ ngành từ trung ương tới địa phương cũng như các lĩnh vực của nền kinh tế cần nâng cao tính độc lập, tự chủ, tự cường và năng lực chống chịu của nền kinh tế; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế.

Đối với doanh nghiệp, ông Lực khuyến nghị: “Doanh nghiệp cần cơ cấu lại, kiểm soát rủi ro dòng tiền, lãi suất, tỷ giá…; chủ động tìm hiểu, tiếp cận Chương trình phục hồi kinh tế – xã hội, nhất là các gói hỗ trợ tài khóa; chương trình nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, chung cư cũ, đầu tư công… Đồng thời, có phương án cụ thể, khả thi đối với trái phiếu doanh nghiệp phải đáo hạn 2023-2024; đa dạng hóa nguồn vốn qua tín dụng, cổ phiếu, trái phiếu, quỹ đầu tư, phát hành các loại giấy chứng từ có giá trí như chứng chỉ quỹ, cổ phiếu (REIT)”.

Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần thích ứng, quản lý thay đổi, quản lý rủi ro, nhất là rủi ro pháp lý, tài chính; tăng trưởng xanh, chuyển đổi số, kinh tế tuần hoàn và đón đầu xu hướng này với tâm thế “vững tâm vượt khó, tạo nền tảng tương lai”.

]]>
Đà phục hồi của thị trường BĐS sẽ dần dần, ‘không có chuyện bùng phát’ https://tindoanhnhan.com/da-phuc-hoi-cua-thi-truong-bds-se-dan-dan-khong-co-chuyen-bung-phat/ Thu, 05 Jan 2023 05:17:53 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/da-phuc-hoi-cua-thi-truong-bds-se-dan-dan-khong-co-chuyen-bung-phat/

TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho biết, tổng nguồn vốn đổ vào lĩnh vực bất động sản năm 2022 ước tính chỉ khoảng 507.000 tỷ đồng (riêng tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 71%).

TS. Cấn Văn Lực: Chỉ hơn 500.000 tỷ đồng chảy vào bất động sản trong năm 2022

Tại Hội thảo “Bắt mạch thị trường bất động sản năm 2023″ diễn ra mới đây,  TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV cho biết, tổng nguồn vốn đổ vào lĩnh vực bất động sản năm 2022 rất thấp, ước tính chỉ khoảng 507.000 tỷ đồng (riêng tín dụng ngân hàng chiếm khoảng 71%), trong khi thông thường con số này lên tới 700.000 – 800.000 tỷ đồng.

“Thông tin vốn tín dụng ngân hàng chỉ chiếm 50 – 55% trong cơ cấu vốn của ngành bất động sản nhưng năm vừa qua, thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp không phát triển được nên nhu cầu dồn qua hệ thống ngân hàng, nhất là vốn trung và dài hạn. Tín dụng bất động sản năm 2022 vẫn tăng 15%, nghĩa là không hề ít”, TS. Cấn Văn Lực cho hay.

TS. Cấn Văn Lực: Chỉ hơn 500.000 tỷ đồng chảy vào bất động sản trong năm 2022

  TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng tư vấn chính sách Tài chính – Tiền tệ quốc gia, Chuyên gia Kinh tế trưởng BIDV. Ảnh Quốc hội. 

Ông Lực cho hay trong năm 2023, Chính phủ sẽ ưu tiên xử lý một số vấn đề trên thị trường tài chính và bất động sản. Thứ nhất là vấn đề pháp lý, nếu tháo gỡ được sẽ giải tỏa được một lượng vốn đang ách tắc. Thứ hai là gỡ nút thắt vốn. Thứ ba là kiểm soát rủi ro hệ thống,…

Ngoài ra, có một vấn đề đáng chú ý nữa là điểm rơi trái phiếu đáo hạn vào năm 2023 – 2024, cùng lúc này thị trường bất động sản đang còn nhiều khó khăn khi thanh khoản kém, lãi suất tăng, tỷ giá biến động,…

Chuyên gia cho biết, Nghị định 65 sửa đổi có 4 điểm đáng chú ý. Một là cho phép phát hành mới để đảo nợ cũ, hai là cho phép doanh nghiệp đàm phán với trái chủ để giãn/hoãn nợ, ba là cho phép lùi thời gian áp dụng quy định nhà đầu tư chuyên nghiệp mới được mua trái phiếu riêng lẻ, bốn là cho phép giãn tiến độ quy định bắt buộc về xếp hạng tín nhiệm.

Bên cạnh đó, vị này cho rằng phải cởi mở hơn kênh phát hành ra công chúng và phải khơi thông kênh này. Hai là phải cởi mở hơn để cho nhiều nhà đầu tư tổ chức (quỹ đầu tư, ngân hàng, bảo hiểm,…) tham gia mua trái phiếu doanh nghiệp cả kể thị trường sơ cấp và thứ cấp.

“Tôi nghĩ những vấn đề trên nếu được tháo gỡ hoàn toàn thì thị trường trái phiếu doanh nghiệp sẽ phát triển rất mạnh trong thời gian tới. Tuy nhiên, trước mắt, các doanh nghiệp bất động sản phải chấp nhận bán chiết khấu tài sản để trả nợ đúng hạn và nếu muốn phát hành tiếp thì phải công khai, minh bạch hơn”, ông Lực nhấn mạnh.

 Thị tường bất động sản sẽ “vực dậy” dần dần từ quý IV/2023

Cũng tại Hội thảo, các chuyên gia đã đưa ra những dự báo về thời điểm thị trường bất động sản hồi phục.

Cụ thể, TS. Cấn Văn Lực nhận định, bối cảnh hiện nay rất khác so với giai đoạn cách đây 10 năm. Tâm lý sợ trách nhiệm hiện nay cũng rất khác so với cách đây 10 năm và đây là một cái khó. Nếu tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc thì thị trường bất động sản sẽ phục hồi rất nhanh bởi lực cầu còn rất lớn.

Chuyên gia dự báo, thị trường có khả năng sẽ phục hồi dần dần từ quý IV/2023, nhưng sẽ phục hồi một cách từ từ chứ không có chuyện bùng phát trở lại. Bởi có rất nhiều vướng mắc hiện nay cần phải có thời gian mới xử lý được, tâm lý và niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp cũng cần thời gian để hồi phục.

 Thị tường bất động sản sẽ “vực dậy” dần dần từ quý IV/2023

 Chuyên gia nhận định thị trường bất động sản hoàn toàn có cơ hội phục hồi trong năm 2023. Ảnh Đông Bắc.

Trong khi đó, TS. Nguyễn Văn Đính, Chủ tịch Hội Môi giới Bất động sản Việt Nam nhận định, thị trường địa ốc 2023 sẽ còn nhiều áp lực do kinh tế Việt Nam vẫn sẽ chịu các tác động từ yếu tố bên ngoài. Song, cơ hội để thị trường phục hồi vẫn có. Dự kiến, khoảng cuối quý II/2023, các giao dịch sẽ xuất hiện nhịp nhàng trở lại, nguồn cung ra thị trường nhiều hơn.

“Thị tường bất động sản Việt Nam giai đoạn này hoàn toàn không lặp lại chu kỳ khủng hoảng giai đoạn năm 2012. Hiện nay, phát triển đô thị cao, đầu tư hạ tầng diễn ra mạnh, cùng với đó nhu cầu về nhà ở, nhu cầu đầu tư kinh doanh bất động sản lại rất cao. Đây là những yếu tố tạo nên động lực rất lớn cho khả năng hồi phục của thị trường bất động sản”, ông Đính chia sẻ.

Vì vậy, ông Đính cho rằng, chỉ cần gỡ những vướng mắc mà thị trường đang gặp phải gồm pháp lý, điểm nghẽn về vốn, củng cố niềm tin… thị trường chắc chắn sẽ cân bằng trở lại. Tất nhiên bên cạnh những giải pháp khơi thông, Nhà nước vẫn phải đi kèm với các chính sách kiểm soát cần thiết để đảm bảo thị trường phát triển nhưng không “nóng”, phát triển một cách hiệu quả, bền vững. Đặc biệt, thị trường bất động sản phải được coi là thị trường trung tâm, thị trường đặc biệt của nền kinh tế vì khả năng tác động của nó đến các ngành nghề khác là rất lớn.

Ở góc độ doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Thu Huyền, Chủ tịch Hội đồng thành viên NewstarLand lại cho rằng, không nhất thiết phải đến quý IV mà chỉ cần những tháng
cuối quý II/2023, thị trường địa ốc sẽ xuất hiện những tín hiệu khởi sắc. Tuy nhiên, thị trường 2023 sẽ có sự thanh lọc mạnh mẽ. Các dự án đáp ứng nhu cầu thực, có pháp lý đầy đủ thì mới được chào bán trong năm tới và cộng đồng khách hàng mới quan tâm xuống tiền. Điều này thực chất là đang giúp cho thị trường phát triển bền vững hơn.

Còn theo ông Phạm Lâm, Tổng Giám đốc DKRA, nhu cầu đầu tư trên thị trường vẫn rất lớn, kể cả nhu cầu cho phân khúc hạng sang, cao cấp chứ không riêng gì phân khúc đáp ứng nhu cầu ở thực. Vì vậy, kịch bản năm 2023 vẫn tăng trưởng nhưng thận trọng. Tuy nhiên đây cũng là cơ hội cho các doanh nghiệp nhìn lại mình để điều chỉnh hướng phát triển phù hợp.

 

]]>
TS. Cấn Văn Lực: Ngân hàng Việt Nam đối diện với 6 thách thức lớn năm 2023 https://tindoanhnhan.com/ts-can-van-luc-ngan-hang-viet-nam-doi-dien-voi-6-thach-thuc-lon-nam-2023/ Sun, 01 Jan 2023 01:35:19 +0000 https://www.tindoanhnhan.com/ts-can-van-luc-ngan-hang-viet-nam-doi-dien-voi-6-thach-thuc-lon-nam-2023/

TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn – Chính sách Tiền tệ Quốc gia cho biết, ngành ngân hàng sẽ phải đối mặt với 6 thách thức đến từ môi trường quốc tế cũng như nội tại nền kinh tế Việt Nam trong năm 2023.

  

Tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam diễn ra mới đây, TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn – Chính sách Tiền tệ Quốc gia cho rằng ngành  ngân hàng vẫn sẽ đối diện với nhiều thách thức trong năm 2023. Trong đó, 6 thách thức đến từ môi trường quốc tế cũng như nội tại nền kinh tế Việt Nam:

Triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% gặp khó khăn

Một số văn bản pháp lý về chuyển đổi số chậm ban hành hoặc gặp nhiều khó khăn khi triển khai như gói hỗ trợ lãi suất 2% thuộc Chương trình phục hồi. Dự thảo Nghị định của Chính phủ về Cơ chế thử nghiệm có kiểm soát hoạt động công nghệ tài chính trong lĩnh vực ngân hàng đã gửi xin ý kiến lần 2 vào năm 2022 (lần 1 vào năm 2020) nhưng vẫn chưa được ban hành. Ngoài ra, dự thảo sửa đổi Thông tư 39/2016 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay qua phương thức điện tử cũng chưa được ban hành, hạn chế khả năng phê duyệt tín dụng online,…

Các TCTD đã thực hiện giải ngân gói hỗ trợ 2% của Chính phủ nhưng với tiến độ rất chậm. Tính đến hết tháng 10/2022, gói hỗ trợ lãi suất mới chỉ giải ngân được khoảng 23/16.035 tỷ đồng phân bổ năm 2022. Nguyên nhân xuất phát từ: Theo khảo sát của NHNN, khách hàng chưa thực sự quan tâm đến gói hỗ trợ do e ngại thanh, kiểm tra sau này; Khó xác định chính xác đối tượng hỗ trợ vì có nhiều doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động đa ngành nghề hoặc chưa đăng ký kinh doanh; Khó xác định được tiêu chí “có khả năng phục hồi” trong bối cảnh môi trường kinh doanh khó lường như hiện nay.

 

Triển khai gói hỗ trợ lãi suất 2% gặp khó khăn

  TS. Cấn Văn Lực, Thành viên Hội đồng Tư vấn – Chính sách Tiền tệ Quốc gia. Ảnh TC Doanh nhân.

Dư địa chính sách tiền tệ đã bị thu hẹp

 Đến hết tháng 11/2022, NHNN đã phải tăng lãi suất 2 đợt (1%/đợt) để ổn định tỷ giá, trong khi các công cụ khác gần như đã sử dụng hết dư địa. Dự trữ ngoại hối hiện nay vừa mức khuyến nghị của IMF (3 tháng nhập khẩu). Cùng với đó, theo nhóm nghiên cứu, việc điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng/giảm sẽ không đạt hiệu quả như kỳ vọng vì các ngân hàng thương mại (NHTM) còn phải tuân thủ các tỷ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo Thông tư 22/2019 của NHNN và biện pháp này thường áp dụng khi nền kinh tế gặp các cú sốc lớn. Biên độ giao dịch tỷ giá trung tâm cũng đã nới lên mức 5%…

Do vậy, với khả năng FED tiếp tục tăng lãi suất 50 điểm % trong tháng 12/2022 và quý I/2023, áp lực lãi suất và tỷ giá tăng còn khá lớn. Bên cạnh đó, NHNN tiếp tục duy trì công cụ hạn mức tín dụng trong năm 2022-2023 để kiểm soát lạm phát mục tiêu và thanh khoản hệ thống ngân hàng, trong bối cảnh thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) ảm đạm, giải ngân đầu tư công còn chậm, khiến việc tiếp cận vốn của doanh nghiệp còn khó khăn.

Hệ số an toàn vốn (CAR) của các NHTM Việt Nam cải thiện chậm

Tính đến tháng 6/2022, xét các NH áp dụng Thông tư 41/2016, hệ số an toàn vốn của của các NHTM nhà nước giảm nhẹ so với cuối năm 2021 từ mức 9% xuống 8,9%; ngược lại, các NHTMCP tăng từ 11,9% lên 12%, và mức an toàn vốn này tương đối thấp khi so sánh với các nước trong khu vực.

Chưa kể các nước trong khu vực đã thực hiện áp dụng Basel 3 hoặc một phần của Basel 3, trong khi các NHTM Việt Nam mới đang trong giai đoạn triển khai Basel 2. Mức đệm vốn của các TCTD ở mức thấp làm hệ thống ngân hàng dễ bị tác động tiêu cực từ các cú sốc bất lợi từ môi trường kinh doanh. Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc tăng vốn của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) còn gặp nhiều khó khăn (do thị trường vốn suy giảm, việc tìm kiếm nhà đầu tư ngoại khó hơn trong bối cảnh kinh tế thé giới suy thoái nhẹ, khâu phê duyệt cho phép giữ lại cổ tức Nhà nước và lựa chọn Nnhà đầu tư chiến lược, nhà đầu tư tài chính còn lâu.

Dự báo nợ xấu của nền kinh tế năm 2023 sẽ gia tăng

Triển vọng năm 2023, lãi suất tăng sẽ làm tăng nghĩa vụ trả nợ của bên vay (cá nhân và doanh nghiệp), trong khi kinh tế phục hồi chậm lại, tăng trưởng thấp hơn như nêu trên, dẫn đến nợ xấu tiềm ẩn gia tăng. Dự báo, năm 2023, nợ xấu nội bảng ở mức 2%, nợ xấu gộp khoảng 4%. Trong khi đó, mức nợ xấu gộp của hệ thống TCTD Việt Nam khoảng 4,99%, ở mức cao khi so sánh với các nước trong khu vực.

Sở hữu chéo của hệ thống ngân hàng đã cơ bản được loại bỏ

Tuy nhiên hiện tượng cổ đông, nhóm cổ đông lớn có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Các TCTD luôn đảm bảo tuân thủ các tỷ lệ an toàn (bao gồm hạn chế, giới hạn cấp tín dụng; giới hạn góp vốn mua cổ phần.) tại Thông tư 22/2019 của NHNN, nhưng tình trạng công ty liên kết, có liên quan hoạt động tinh vi, có tác động nhất định đến hoạt động đầu tư hoặc tín dụng. Mặc dù khó có thể đưa ra bằng chứng xác thực về hành vi này nhưng những vụ việc vi phạm của một số tập đoàn bất động sản vừa qua đã bộc lộ tính chất liên quan này.

Thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn dồi dào

Sau giai đoạn giảm liên tiếp từ mức 34,5% năm 2016 xuống 24% năm 2021, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của hệ thống tăng dần lên mức 25,2% vào tháng 6/2022; tỷ lệ dư nợ cho vay/huy động vốn tăng từ 72,1% năm 2021 lên 74,1% vào tháng 6/2022. Đồng thời, tài sản mang tính thanh khoản cao như tiền gửi của TCTD tại NHNN giảm, trong 9 tháng/2022, các NHTM rút mạnh tiền gửi tại NHNN với tổng lượng tiền gửi tại NHNN của 28 NHTM quan sát là 176 nghìn tỷ đồng, giảm 48% so với đầu năm.

Ngoài ra, tín dụng đã tăng cao trong năm 2022 so với năm 2020-2021
trong xu hướng phục hồi của nền kinh tế. Tính đến ngày 30/11/2022, tăng trưởng tín dụng toàn nền kinh tế tăng 12,2%, cao hơn mức 11,5% cùng kỳ năm 2021. Lý do NHNN điều tiết thận trọng tăng trưởng tín dụng năm 2022 vì:  Hạn mức tăng trưởng tín dụng là giải pháp kiểm soát cung tiền, từ đó góp phần kiểm soát lạm phát; Lo ngại rủi ro thanh khoản hệ thống, ảnh hưởng mục tiêu ổn định lãi suất và an toàn hệ thống. Tuy nhiên, NHNN cũng đang có kế hoạch, lộ trình bỏ đi công cụ hạn mức này ở thời điểm phù hợp; TS Cấn Văn Lực và nhóm chuyên gia cho rằng nên là 1-2 năm tới.

 

]]>